Nếu Cầu Được Thì Tu Chi Cho Mệt | Kinh Duy Ma Cật kỳ 36 - HT.Từ Thông
VÔ CẦU HÁ LẠI NGẠI VÌ CẦU?
Vì thế nên mới dùng tánh phá tướng, đem lý bác sự, lấy không bài có, và ngược lại, để gây thành những tranh chấp nghi vấn phân vân. Họ không ngờ sự lý tương tức, nghĩa là sự tức lý, lý tức sự, nếu phân chia ra mà nhận định thiên lệch, thì sự không thành chân sự, lý chẳng phải chân lý; cả đến tánh tướng, có không, và các pháp nhị biên khác cũng như vậy.
Vì thế trong Kinh Duy Ma Cật mới nói đến Bất Nhị pháp môn, nghĩa là pháp môn Không Hai, để phá trừ lối chấp hai bên đó. Không Hai là dung hóa tất cả để nhập vào tánh thể, chớ chẳng phải một.
Đây mới thật là chân cảnh của duy tâm.
Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh?
- Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu? Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm. Thí dụ: một tăng sĩ khi ẩn tu nơi am tranh vắng vẻ, sự sống hẩm hiu, ít người thăm viếng, duyên đời tuy suy nhưng đạo lại thạnh. Ít lâu sau, nếu có người đạo tâm hay biết tới cúng dường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng tập trung về đông đảo, chừng ấy phước duyên tuy thạnh nhưng phần giải thoát lại suy, bởi vị ấy mắc bận tâm lo ứng phó công việc bên ngoài. Lẽ họa phước ẩn nương nhau cũng như thế. Cho nên tâm hạnh của người tu là không cầu việc ác, hay cầu làm chúng sanh, cũng không cầu điều thiện, hoặc cầu thành Phật. Có người hỏi: "Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?" Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật." Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt. Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào vọng tưởng, không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá vô tri!"
DŌGEN THIỀN SƯ
CẦU QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Nghe nói ở Nhật-Bản cũng có hành tu Thiền Sơ-cơ cũng đồng lối MÊ chấp ấy, các Vị đó sao không xét lại chuyện “DŌGEN THIỀN SƯ” ở nước mình, khi Ngồi THUYỀN từ TRUNG QUỐC trở về NHẬT BẢN, gặp cơn GIÓ BÃO thổi Ghe-Thuyền của Ngài sắp CHÌM, trong giây phút SINH TỬ đó, Ngài không NGỒI THIỀN, mà lại Niệm “ NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT”, còn KHUYÊN những người trên Thuyền cùng Niệm theo Ngài, tức thời HÓA THÂN của Bồ-tát Xuất-hiện, làm cho cơn bão lần lần dừng lại.
Cho nên, mọi người đó đều đặng thoát khỏi NẠN GIÓ BÃO, NHỜ Niệm Hồng Danh Bồ-tát Quán-Thế-Âm.
Lời Than rằng:
“Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,
Bất tri thùy thị cá trung nhơn.”
Tạm dịch,
“Một đại tạng Kinh xem đã hết,
Biết ai là kẻ ở TRONG đây.”
Có lẽ cũng một phần Phát-xuất từ mối MÊ chấp này.
The statue memorializing Dōgen's vision of Avalokiteshvara
at a pond in Eihei-ji, Japan.
Another famous incident happened when he was returning to Japan from China. The ship he was on was caught in a storm. In this instance, the storm became so severe, that the crew feared the ship would sink and kill them all. Dōgen then began leading the crew in recitation of chants to Kannon (Avalokiteshwara), during which, the Bodhisattva appeared before him, and several of the crew saw her as well. After the vision appeared, the storm began to calm down, and consensus of those aboard was that they had been saved due to the intervention of Bodhisattva Avalokiteshwara.
Sơn cư độc xử lạc thiên chơn,
Minh nguyệt thanh phong chuyển pháp luân,
Nhất đại tạng kinh đô thuyết tận,
Bất tri thùy thị cá trung nhơn.
(SƠN CƯ BÁCH VỊNH)
VẠCH TRẦN KINH VU LAN A LA HÁN THÍCH THÔNG LẠC
TỰ “ĂN” ĐƯỢC “NO” THÌ
TỐT.
NHƯ NẾU TRONG
TRƯỜNG HỢP NÀO ĐÓ, KHÔNG THỂ “TỰ” ĂN ĐƯỢC, THÌ PHẢI NHỜ “NGUỜI KHÁC” DÙNG
“PHƯƠNG TIỆN” GIÚP ĐỠ MỚI ĂN ĐƯỢC ?
LỄ VU LAN TỰ TỨ
Vì ngày nầy là NGÀY TỰ TỨ của 10 PHƯƠNG TĂNG , tức là tha-hồ, mặc tình, hứa cho nói lỗi lầm
lẫn nhau, để cùng nhau SÁM HỐI.
“TỘI CĂN” LÀ CỘI GỐC TỘI LỖI, ĐÃ KẾT THÀNH QUẢ BÁO XẤU
ÁC KHÓ LAY CHUYỂN, NHƯ CÂY CÓ GỐC RỄ.
Theo kinh “NHÂN QỦA BA ĐỜI” thì nghiệp chướng chồng
chất lên nhau thay đổi theo từng sát na sinh diệt, theo tâm niệm và hành
vi “TRONG NHIỀU KIẾP TRƯỚC”
và “HIỆN TẠI” của mỗi người.
Nhân nào mạnh hơn hết thì qủa đến trước, cứ thế mà
nhân-qủa từng tự nói tiếp nhau liên tục không dừng.
Nếu nghiệp chướng là
“NHÂN QỦA” cố định, thì tại sao
Vua Ca-Lợi cắt đứt tay chân của Đức Phật, mà được đức Phật độ cho giải thoát
trước tiên? Vậy có phải là do "NGUYỆN LỰC" của đức phật, đã làm tiêu
nghiệp chướng cho Vua Ca-Lợi rồi sao?
Vua Ca-Lợi
trong kiếp trước, kiếp này là KIỀU TRẦN NHƯ
Đức Phật trong kiếp này, kiếp trước là một vị tiên
tu hạnh nhẫn nhục bị Vua Ca-Lợi cắt đứt
tay chân .
( KINH KIM CANG)
ĐỊNH BÁO
( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển
biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười
)
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích,
Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao
Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm
người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng,
thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng
minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có
“Tam năng” (ba việc làm được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).
Có ba việc làm được là :
1) Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp.
2) Chư Phật
có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô
biên kiếp quá khứ và vị lai.
3) Chư Phật
có thể độ vô-lượng chúng-sanh.
Ba việc làm không được là :
1. Chư
Phật không thể diệt được định nghiệp của chúng-sanh.
2. Chư
Phật không thể độ những chúng-sanh vô duyên.
3. Chư
Phật không thể độ hết chúng-sanh giới.
Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn,
nhưng "SỨC PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực
hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng
theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.
NHƯ VUA LƯU LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC
PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA NGỤC A TỲ ( LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN ĐOẠN).
Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật
sự “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT”
cũng không thể ngăn cản được.
Tóm lại, nếu qúi vị “THỰC HÀNH ĐÚNG THEO LỜI ĐỨC PHẬT
DẠY” thì chuyển “ĐỊNH NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành
“HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC”
thành “CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải
không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số
kiếp trước của qúi vị đã tạo.”
Kệ tụng:
Thủ
nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn
động tam thiên thế giới thì
Hữu
duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ
bi phổ độ Diêm-phù-đề
Cho nên, nếu ai sẵn-sàng VUI LÒNG NHẬN LẤY LỖI LẦM của
mình, “THÀNH TÂM SÁM HỐI” thì vào được “BỔN NGUYỆN LỰC” của 10 PHƯƠNG TĂNG nên
được GIẢI THOÁT.
Tội
từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm
được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội
tiêu tâm tịnh thảy đều không
Thế
mới thật là chân sám hối.
Lời bàn:
Nếu không CÚNG DƯỜNG vào ngày “RẰM THÁNG 7” được,
thì nên chọn 1 ngày trong tháng 7. Một năm chỉ có 1 ngày VU LAN BỒN mà thôi,
thì mới khế hợp với PHẬT dạy trong KINH VĂN.
Lại nữa, “Trong tâm chúng ta có cái gì thì bên ngoài
có cái đó”. Nếu ta TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT, LÀM THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC…như
“CÚNG DƯỜNG” vào NGÀY RẰM THÁNG 7, rồi hồi
hướng cho“CHA MẸ”...đã mất thì họ hưởng được qủa lành an vui giải thoát.
Nếu ta làm những VIỆC KHÁC VỚI THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC hồi
hướng cho “CHA MẸ”... đã mất thì họ cũng hưởng được NHỮNG GÌ KHÔNG PHẢI LÀ THIỆN
CĂN CÔNG ĐỨC, nên không biết khi nào họ mới được an vui giải thoát đây?
Cho
nên nói “TẤT CẢ DO TÂM TẠO” là vậy!
LỄ CHAY TĂNG VU LAN BỒN
“Tất cả
các bực Thánh, Phàm
Đồng
lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa”
KINH VĂN:
Vì ngày ấy Thánh-tăng
đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ-hội
về
Như người Thiền-định
Sơn-khê
Tránh điều phiền-não
chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn
tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện
thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ
kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý
ẩn-danh lâm-tòng
Hoặc người đặng
lục-thông tấn-phát
Và những hàng
Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười
phương
Hiện hình làm sãi ở
gần chúng-sanh
Đều trì giới rất
thanh, rất tịnh
Đạo-đức dày,
chánh-định chơn-tâm
“Tất cả các bực Thánh,
Phàm
Đồng lòng thọ-lãnh bát
cơm lục-hòa”
VU LAN BỒN
LÀ CÚNG DƯỜNG “CHUNG” CHO “PHẬT” VÀ “10 PHƯƠNG TĂNG”,
KHÔNG PHẢI CÚNG “RIÊNG” CHO THẦY ĐI “KHẤT THỰC”.
VU LAN là
Phạm-âm, dịch là GIẢI ĐẢO HUYỀN, nghĩa là “THÁO MỞ SỰ TREO
NGƯỢC”, không “ĂN UỐNG” gì được, ám chỉ cho sự THỐNG KHỔ NẶNG NỀ.
BỒN là
THAU, TƯỢNG, CHẬU, đồ bằng SÀNH, bằng THIẾT, hoặc bằng THAU, ĐỒNG...”RẤT LỚN”
để chứa đựng đồ ăn cho “PHẬT” và “10 PHƯƠNG TĂNG”.
KINH VĂN:
THỜI, PHẬT SẮC THẬP
PHƯƠNG CHÚNG TĂNG GIAI TIÊN VỊ THÍ CHỦ MÔNG CHÚ NGUYỆN, NGUYỆN THẤT THẾ
PHỤ MẪU, HÀNH THIỀN ĐỊNH Ý NHIÊN HẬU THỌ THỰC.
SỞ THỌ THỰC THỜI,
TIÊN AN TẠI PHẬT TIỀN, THÁP TỰ TRUNG PHẬT TIỀN, CHÚNG TĂNG CHÚ NGUYỆN CÁNH,
TIỆN TỰ THỌ THỰC.
(
BẤY GIỜ, ĐỨC PHẬT
TRUYỀN CHÚNG TĂNG Ở 10 PHƯƠNG, TRƯỚC PHẢI VÌ NGƯỜI THÍ CHỦ MONG NHỜ CHÚ NGUYỆN,
CẦU CHO CHA MẸ 7 ĐỜI, MÀ “CHUYÊN Ý THIỀN ĐỊNH” RỒI SAU MỚI THỌ
THỰC.
“LÚC BAN ĐẦU THỌ THỰC, TRƯỚC HẾT ĐỂ MÓN ĂN NƠI “TRƯỚC ĐỨC PHẬT”, HAY ĐỂ “TRƯỚC TƯỢNG PHẬT TRONG CHÙA THÁP”, CHÚNG TĂNG ĐỒNG CHÚ NGUYỆN XONG, RỒI TỰ THỌ THỰC.”
)
“CHUYÊN Ý THIỀN ĐỊNH” là
chú ý lặng lòng để tưởng-niện, khiến cho sự cầu nguyện được mau thành tựu.
“TRƯỚC ĐỨC PHẬT” khi
PHẬT còn “TẠI THẾ".
“TRƯỚC TƯỢNG PHẬT
TRONG CHÙA THÁP” khi PHẬT
nhập “NIẾT BÀN”.
“MÓN ĂN
TRĂM VỊ” là
dùng 5 mùi vị căn bản “NGỌT, MẶN, CHUA, CAY, ĐẮNG” pha chế làm
thành “THỨC ĂN” TRĂN VỊ, NGÀN VỊ TÙY Ý...
Hỏi: Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh nào?
Ðáp: Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Phật thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy ngài Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo, các con phải thường nhớ nghĩ cúng dường cha mẹ mình. Hàng năm nhằm ngày rằm tháng bảy các con phải sinh lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đời này cũng như cha mẹ trong bảy đời quá khứ mà cử hành pháp hội Vu-Lan, cúng dường chư Phật và chư Tăng để báo đáp ân đức mà cha mẹ đã nuôi dưỡng mình." Ngài Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật, thiết trai cúng dường mười phương tăng chúng, hồi hướng công đức về cho mẹ mình ở dưới địa ngục, khiến bà được thoát thân ngạ quỷ, vãng sinh tịnh độ.
Hỏi: Ý nghĩa của chữ Vu Lan Bồn là gì?
Ðáp: Vu Lan Bồn là dịch âm từ chữ Phạn Ullambana. Ý dịch là cứu đảo huyền. Theo ngài Tông Mật, Vu Lan nghĩa là đảo huyền, ám chỉ cực hình bị treo (huyền) ngược (đảo) của chúng sinh trong địa ngục. Bồn tức là cái chậu, cái thau, tượng trưng cho vật cứu hộ những chúng sinh ấy. Do đó cách dịch thông thường của lễ Vu Lan là lễ "Cứu đảo huyền, giải thống khổ" (Vu Lan Bồn Kinh Sớ, quyển hạ).
Hỏi: Làm sao cứu độ chúng sinh, cửu huyền thất tổ, trong hạ giới?
Ðáp: Kinh kể lại rằng ngài Mục Kiền Liên dùng sức mạnh thần thông của cá nhân mình để thử cứu mẹ mình ở địa ngục mà thất bại. Do đó, muốn cứu độ chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, mình cần phải nhờ tới đạo lực của tập thể chư Tăng, những vị chân thật tu hành. Xưa kia, vào rằm tháng tư, đức Phật và chư Tăng kiết hạ, (nghĩa là an trụ một chỗ để tu hành, không ra ngoài khất thực để tránh phải dẫm lên côn trùng sâu bọ sinh sản đầy đẫy vào mùa mưa). Rằm tháng bảy, là ngày cuối cùng của mùa hạ, Phật và chư Tăng tề tựu để tụng giới, thuyết pháp. Bấy giờ chư Tăng sẽ dùng đạo lực thanh tịnh của mình để hồi hướng về chúng sinh đang chiụ thống khổ trong cõi dưới.
Hỏi: Trong lễ Vu Lan phải cúng dường ra sao ?
Ðáp: Theo như Phật dạy, những ai muốn báo hiếu cho cha mẹ bảy đời thì phải đem thượng vị ẩm thực an trí nơi một cái chậu (hay đồ đựng) để cúng dường chư Tăng trong mười phương. Sở dĩ dùng chậu hay đồ đựng có dung tích lớn là muốn ám chỉ rằng tất cả đồ cúng dường là dành cho tập thể Tăng đoàn chớ không dành riêng cho vị Tăng đặc biệt nào. Tất cả đồ vật cúng dường ấy sẽ được phân phối đồng đều cho tất cả Tăng Ni.
Hỏi: Lễ Vu Lan mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều tổ chức khác nhau, như vậy tổ chức thế nào thì tương đối phù hợp với tinh thần chánh pháp Phật dạy?
Ðáp: Vua Võ Ðế vào năm Ðại Ðồng thứ tư (538 AD) đã từng tới chùa Ðồng Thái để làm lễ trai tăng, cúng dường. Sau rồi mỗi năm, trở thành thông lệ, các vua hoàng đế đều rất coi trọng lễ Vu Lan. Ðời Ðường, vua Ðại Tông còn tổ chức cực kỳ long trọng, bằng cách cho thỉnh Tăng Ni , thiết bồn cúng dường ở trong hoàng cung. Về sau truyền thống phổ cập khắp nhân gian, nhiều màu mè sắc thái thế tục (như đốt vàng bạc, tiền giấy, cúng kiếng..), cũng như những phong tục nhân gian (đàn ca múa hát) được thêm vào, hoàn toàn không phải chân lý Phật dạy. Sau này vào đời nhà Thanh, có nhiều Tăng chủ trương làm lễ cung phụng Vu Lan Bồn, cúng dường Tam bảo vào ban ngày, còn ban tối thì cúng cô hồn, siêu độ quỷ đói.
Ðối với người tại gia, tinh thần căn bản nhất mà lễ Vu Lan nhằm biểu hiện, nằm ở trong ba phương diện:
1. Trên phương diện căn bản làm người, thì lễ Vu Lan là cơ hội làm ta phản tỉnh: khiến mình biết hiếu thảo với cha mẹ còn sống và biết bổn phận phải giải cứu cha mẹ bảy đời xưa kia cũng như giải cứu tất cả ngạ quỷ, địa ngục chúng sinh.
2. Trên phương diện tu phước tu huệ, thì lễ Vu Lan là cơ hội để ta tu tâm chân thành: mình phải biết cung kính cúng dường chư Tăng, phụng sự Tam Bảo.
3. Trên phương diện giải thoát, thì lễ Vu Lan là cơ hội để ta tu tâm đại bi: mình phải thấy sự thống khổ của mọi chúng sinh như là của chính mình.
Bởi vì nội dung siêu độ vong linh là một công việc rất trang trọng, nghiêm túc. Do đó mọi sắc thái tiêu khiển, hướng ngoại đều không đem đến lợi ích chân thật và chắc hẳn sẽ không đem lại công đức, nếu không muốn nói là sẽ gieo trồng nhân khổ cho mai sau.
Bồ Ðề Hải
SÁM VU LAN
(Quỳ đọc)
Ðệ-tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng Bảy,
Gặp hội Vu-Lan,
Phạm-Vũ huy-hoàng,
Ðốt hương đảnh lễ
Mười-phương Tam-thế,
Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Noi gương Đức Mục-Kiền-Liên,
Nguyện làm con thảo,
Lòng càng áo-não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng-thành,
“MẸ” dày đau khổ,
Ba năm nhủ bộ,
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công “CHA”,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ,
Quyết cùng hoàng-vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo,
“ÐỆ TỬ” ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kỉnh;
Ðạo tràng thanh-tịnh,
Tăng-bảo trang-nghiêm,
Hoặc thừa TỰ TỨ.
Hoặc hiện tham-thiền,
Ðầy đủ thiện duyên,
Dủ lòng lân-mẫn,
Hộ-niệm cho:
“Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Ðượm nhuần mưa Pháp,”
Còn tại thế:
“Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu-trì,”
Ðã qua đời:
“Ác-đạo xa lìa,
Chóng thành Phật-quả,”
Ngưỡng mong các Đức Như-Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia-hộ.
NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ (3 lần)
BÁO PHỤ MẪU ÂN CHÚ
NAM MÔ MẬT LẬT ĐA ĐÁ BÀ DẠ TÁ HA.
(108 BIẾN)
PHẬT THUYẾT VU LAN BỒN KINH SỚ
Sa-môn Tông Mật, người Sung quốc soạn.
Bắt đầu từ sự hỗn độn, che lấp trời đất, chung cho cả thần, người, chung với giàu nghèo, Nho, Thích đều y cứ, chỉ là đạo hiếu. Ứng với sự thành khẩn của người con hiếu, cứu cha mẹ khỏi khổ nguy, đáp đền ân đức cao lớn như trời, chỉ có giáo pháp Vu-lan-bồn.
Tông Mật tội khổ sớm mất cha mẹ, thường buồn, sống trong giá lạnh, mãi ôm hận của gió cây. Trộm nghĩ trọn đời đã bị chôn vùi, suốt đời nổi trôi, tuy mở rộng hiếu tư nhưng không giúp ích cho thần đạo. Liền tìm tòi lời dạy của Thánh hiền, cung kính mong cầu phương pháp cúng tế cho người đã mất, được pháp môn này, thật là hạnh lành.
Mỗi năm vào ngày chư tăng tự tứ, dâng bốn thứ cúng dường Tam bảo, Tông Mật cung kính hành theo, đã trải qua nhiều năm, giảng cả lời dạy ấy, để chỉ bày những điều chưa nghe, do đó trở về quê cũ, nương vào ngày ấy mở ra đạo tục tốt đẹp, vừa buồn vừa vui vâng theo, khác miệng cùng lời, không phân biệt thân sơ, tâm cao như thông bách, đâu xem thường làng xóm.
Xin hãy niệm tình mà phát huy đạo lý quan trọng.
Đảnh lễ Đấng giáo chủ ba cõi,
Đức Thích-ca Thế Tôn đại hiếu,
Nhiều kiếp báo đền ân cha mẹ,
Chứa nhóm nhân thành Chánh giác.
Đem các loài trang sức vĩnh viễn, nhận lời thỉnh giảng kinh này, muốn báo đáp với người ân, đều trả được ân khôn cùng. Nay ta đã khen ngợi, nguyện các bậc Thánh thầm che chở, mình người chỉ còn thân thích, xa lìa các khổ, thường được an vui.
Để giải thích kinh này, trước chia làm bốn đoạn:
- Nguyên nhân khởi giáo.
- Thuộc về tạng thừa nào.
- Xác định tông chỉ.
- Giải thích văn kinh.
Trong phần đầu lại chia làm bốn:
Đáp lại nhân đời trước.
Đáp lời thỉnh ngày nay.
Làm sáng tỏ hiếu đạo.
Chỉ bày ruộng tốt.
I.- NGUYÊN NHÂN KHỞI GIÁO
Đầu tiên là đáp lại nhân đời trước :
Thái tử Tất-đạt không nối ngôi vua, bỏ người thân lìa đất nước, mục đích là tu hành đắc đạo báo ân cha mẹ. Nhưng dụng tâm của Bồ-tát, không chỉ vì mình, cho nên mới mở pháp hội vu-lan, để đem phước đến cho cha mẹ của mình và người, kinh này có ra với mục đích như vậy.
Thứ Hai là Đáp lời thỉnh ngày nay:
Đại Mục-kiền-liên vì có tâm hiếu muốn cứu độ cha mẹ, báo ân bú mớm nên xuất gia tu hành được thần thông bậc nhất. Quán thấy mẹ mình bị đọa vào loài quỷ đói, tự ngài không thể cứu được, nên bạch Phật tìm phương cách, Đức Phật bèn chỉ bày pháp cúng dường Vu-lan, cứu cái khổ treo ngược của mẹ. Vì thương mẹ, ngài thực hành tất cả. Là đệ tử xuất gia tại gia, xin Phật chỉ dạy pháp môn này, đáp lời thỉnh của Mục-liên, đó là nguyên nhân Đức Phật nói kinh này.
Thứ Ba là Làm sáng tỏ hiếu đạo: lại có hai:
– Làm sáng tỏ chung hạnh hiếu là tông bổn của hai giáo.
– Nói riêng về sự giống nhau, khác nhau của hạnh hiếu hai giáo.
Trong phần nói chung lại nói về Nho giáo, lấy hiếu làm gốc. Nghĩa là bắt đầu từ thiên tử cho đến người bình thường, nước nhà truyền nhau, đều lập tông miếu. Tuy tác dụng của năm hiếu, khác nhau trăm hạnh nhưng nguồn gốc không khác. Về mở tông nói nghĩa, trong chương có nêu chí đức yếu đạo, đạo đức lấy đó làm thể, giáo pháp từ đó sinh ra, lẽ nào có người quân tử mà không lấy đó làm gốc, đã là kinh trời nghĩa thì phải làm cho mọi người phục tùng. Tuy nói lễ nhạc tiêu mất nhưng cuối cùng lại quở trách áo gấm cơm gạo, thật rộng lớn thay hạnh hiếu!
Đức của bậc Thánh là làm thế nào để vun đắp cho hạnh hiếu! Thứ hai là Phật giáo lấy hiếu làm gốc, nhưng tất cả Chư Phật, đều có chân thân và hóa thân.
– Thuyết Thích-ca hóa thân, tùy căn cơ mà quyền giáo.
– Thuyết Xá-na chân thân, là thật giáo rốt ráo. Giáo là kinh luật. Kinh nói về lý trí, luật nói về đức hạnh, giới tuy muôn hạnh nhưng lấy hiếu làm tông. Cho nên Đức Phật Lô-xá-na lúc mới thành Chánh giác, liền nói Đại kinh Hoa Nghiêm, là Đại giới của Bồ-tát, lại ở đầu kinh có nói. Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đầu tiên ngồi dưới gốc Bồ-đề, thành Vô thượng Chánh giác rồi, bắt đầu kết Ba-la-đề-mộc-xoa, hiếu thuận cha mẹ, chư Tăng, Tam bảo, hiếu thuận là pháp chí đạo, hiếu chính là giới, cũng chính là ngăn cấm. Kinh Niết-bàn cũng chép: Kỳ lạ thay cha mẹ! Sinh ra, nuôi lớn ta… chịu nhiều khổ não, vừa tròn mười tháng, ôm ấp thân ta, sau khi sinh rồi, nhường khô nằm ướt, trừ bỏ bất tịnh, đại tiểu tiện lợi, bú mớm nuôi nấng, giữ gìn thân ta, vì ý nghĩa này. Nên phải báo ân, thuận theo cúng dường. Trên là nói rõ hai giáo lấy hiếu làm gốc rồi.
Thứ hai nói riêng về sự giống nhau và khác nhau về hiếu hạnh của hai giáo. Trong đó, trước hết là nói về sự khác nhau, sau là nói về sự giống nhau. Ban đầu nói lúc cha mẹ còn sống hầu hạ nuôi dưỡng khác nhau, kế đó cha mẹ qua đời phải cúng tế khác nhau. Về hầu hạ nuôi dưỡng khác nhau: Nho giáo thì cẩn thận giữ gìn da tóc, để tiếng lại đời sau, cho nên vui xuân không ra khỏi nhà, hội họp con cháu mở ra sự cung kính. Giáo pháp Đức Thích-ca thì cạo tóc nhuộm áo, pháp giúp cho hiện đời, vì thế Ưu-đà kính tin, Tịnh Tạng theo tà, đó là nói làm điều lành không giống nhau. Cùng trở về hiếu. Nói về sự khác nhau sau khi chết: có ba việc khác nhau:
- Cư tang dị: (khác nhau về để tang) Đạo Nho thì dùng quan quách chôn xuống đất để giữ gìn hình hài. Còn Đạo Phật thời niệm tụng, cầu nguyện cho thần thức.
- Tề kỵ dị: (khác nhau về cúng tế): Nho thì chỉnh tề bên trong, yên ổn bên ngoài, nghĩ đến tiếng nói và mặt mày. Đạo Phật thì cúng tế, giảng kinh, giúp cho nghiệp báo.
- Chung thân dị: (Khác nhau về cả đời) Đạo Nho giáo giáo thì bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông giết hại sinh mạng, Đạo Phật thì ba tiết: đoan ngọ, trung thu, nguyên đán phóng sinh, bố thí, giữ giới, hội Vu-lan. Bởi do Chân tông, chưa đến Chu Khổng. Lại dạy giữ tâm nay biết lý có chỗ trở về. Không nên còn chấp quyền giáo. Lại phước lớn thì không gì hơn bố thí, mạng sống là nhân căn bản của Thích phạm, chính là đức lớn của trời đất.
Nay giết kia cúng đây, thì đâu gần với lòng nhân? Nếu nhẫn được thì ai không thể nhẫn? Tuy nói rằng cầu phước nhưng thực tế là gây thêm hận thù. Tự làm theo hư danh, gieo tai họa ương thần đạo.
Hỏi: Cha mẹ sinh về đường khác, thì có thể cúng tế, làm chay, nếu đọa vào loài quỷ thì thà không thiết đãi cúng tế có đúng không?
Trả lời: Nếp lúa chẳng có mùi thơm thì có thể thường cúng tế, nên biết việc cúng tế mùa xuân hơn hẳn giết trâu, huống chi là quỷ thần… khác nhau, đâu phải đều thọ hưởng? Như trên đã nói rõ sự khác nhau rồi.
– Kế là nói về sự giống nhau, lại có hai: đầu tiên nói về sự giống nhau giữa còn và mất, sau nói về sự giống nhau giữa tội và phước.
Nay đầu tiên y theo văn năm câu trong chương Hiếu Hạnh để nói về sự giống nhau, tức thuộc về lúc còn sống và sau khi chết.
- Lúc cha mẹ còn sống thì rất cung kính. Đạo Nho thì khác với chó ngựa. Đạo Phật thì toàn bộ nhiều hơn bảy.
- Nuôi dưỡng thì rất vui, đạo Nho thì tiếng vui vẻ khi ôn hòa định tĩnh… có khi quạt nóng ấp lạnh. Đạo Phật thì tiết lượng niềm tin hủy báng phần giảm y bát… Có khi cắt thịt cứu đói.
- Bệnh thì rất lo lắng: Trong Nho giáo như vua văn Đế trước nếm thuốc thang, Võ vương không cỡi mũ đai. Trong Đạo Phật, như Thái tử dùng thịt làm thuốc, cao tăng dùng thân gánh vác.
- Cha mẹ mất thì rất đau buồn. Nhà Nho có Võ Đinh không nói, Tử Cao khóc ra máu. Đạo Phật có Mục-liên khóc lớn, Điều ngự khiêng cỗ quan.
- Cúng tế thì rất trang nghiêm: Đạo Nho có người cúng tế măng tre. Đạo Phật thì có việc cho cơm. Nhưng chỗ chí giáo thì vị lai khó mở mang báo ứng.
Cho nên trước đặt ra pháp cúng tế, khiến cung kính đối với thần linh. Thần linh là thức tánh của cha mẹ, đủ nói lên sự thường còn của ông bà. Thân tan rã mà thần thức không mất, lẽ nào coi trọng thân mà xem nhẹ thần thức ư! Những việc khác như trước có nói. Như trên là nói về sự giống nhau giữa còn và mất đã xong.
Thứ hai là nói về sự giống nhau giữa tội và phước, giống nhau về tội: Đạo Nho thì điều chướng vượt quá năm hình, phạm thì phải bị năm khắc mà ân xá không gồm. Đạo Phật nêu bảy tội nghịch, giới luật có bảy lần ngăn mà chắc chắn đọa vào A-tỳ. Thứ ba là giống nhau về phước: Nho thì cờ treo báo ở trước cổng. Đạo Phật thì làm sáng rõ nhân của tịnh độ giới đức. Như trên là nói chung về đạo đã xong.
Thứ tư là Chỉ bày ruộng tốt:
Thí như người thế gian muốn được kho lẫm lương thực, năm thứ ngũ cốc đầy tràn, hàng năm không thiếu thì phải lấy hạt giống lúa mì tốt, cho trâu cày ruộng mà gieo trồng, không gieo trồng thì cạn hết.
Trong Phật pháp cũng giống như vậy, lấy tâm từ bi, tâm cung kính, tâm hiếu thuận làm hạt giống. Lấy cơm áo, tiền tài, thân mạng làm trâu cày, lấy nghèo bệnh, ba ngôi báu, cha mẹ làm ruộng đất. Có đệ tử Phật muốn được trong tạng thức trăm phước trang nghiêm đời đời không hết. Phải vận tâm từ bi, tâm cung kính, tâm hiếu thuận, đem cơm áo tiền của thân mạng, cung kính, nuôi nấng, cung cấp cho người bệnh nghèo, ba ngôi báu, cha mẹ, gọi là gieo trồng phước đức, không gieo phước thì nghèo cùng không có phước tuệ, đọa vào đường sinh tử nguy hiểm, nói trồng ruộng phước, gọi là ruộng phước. Như ruộng trồng lúa gọi là ruộng phước. Nhưng hạt giống có tươi mới, khô héo, ruộng có tốt, xấu, như tâm từ bi, cung kính, hiếu thuận có tha thiết, lơ là. Nghèo có cạn và sâu, bệnh có nhẹ nặng, Phật có chân hóa, hóa có trụ thế, nhập diệt, pháp có Tiểu thừa, Đại thừa.
Giáo có quyền giáo, thật giáo, tăng có giữ giới, phá giới. Cha mẹ có hiện đời, bảy đời. Mỗi trường hợp đầu phối hợp với ruộng tốt xấu, thấy rõ. Nay cúng hội Vu-lan đủ ba thứ ruộng tốt nên nói là thắng, nghĩa là ngày Phật vui mừng, cúng dường đại đức tịnh giới tự thứ, gọi là kính điền thắng. Báo ân cha mẹ là ân điền thắng. Cha mẹ đang trong cơn nguy nan, là bi điền thắng. Vì muốn chỉ bày bi điền thắng nên Phật nói kinh này.
II.- THUỘC VỀ TẠNG THỪA NÀO
Thứ hai là thuộc về tạng thừa nào. Tạng là ba tạng; thừa là năm thừa.
Ba tạng:
- Tu-đa-la KINH
- Tỳ-nại-da LUẬT
- A-tỳ-đạt-ma LUẬN
- Tu-đa-la: Hán dịch là Khế kinh. Khế là khế lý, khế cơ. Kinh: luận Phật Địa chép: Nghĩa là quán nhiếp, tức thông suốt nghĩa nên biết, nhiếp trì chúng sinh được hóa độ. Giáo này giải thích về định học trong ba học.
- Tỳ-nại-da: Hán dịch là điều phục, điều là điều luyện ba nghiệp, phục là chế phục lỗi lầm. Giáo này giải thích giới học.
- A-tỳ-đạt-ma: Hán dịch là đối pháp, pháp là bốn đế Niết-bàn, đối là đối hướng, đối quán. Năng đối là vô lậu. Giáo này giải thích tuệ học.
Nhưng kinh là hóa giáo, giáo hóa dắt dẫn. Luật là chế giáo, chế y cứ hành nghiệp. Luận thì giải thích ý kinh luật. Ở đây Vu-lan-bồn này y theo danh đề thì thuộc về hóa giáo, thuộc về kinh tạng. Y theo ý nghĩa ấy cũng thuộc về chế giáo, thuộc về luật tạng.
Năm thừa:
- Nhân thừa
- Thiên thừa
- Thanh văn thừa
- Duyên giác thừa
- Bồ-tát thừa
Gọi thừa là do nó có công năng vận chuyển. Năm là nói người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Năm hạng này năng lực có lớn nhỏ. Tải (là chở), có xa gần.
- Nhân thừa: Đó là quy y Phật pháp, tăng và thọ năm giới cấm. Vận chuyển chúng sinh vượt khỏi ba đường ác, sinh lên cõi người. Nó giống như chiếc thuyền nhỏ vượt qua khe nước giữa hai núi.
- Thiên thừa: Đó là mười điều lành thượng phẩm và bốn thiền tám định. Vận chuyển chúng sinh vượt qua bốn châu, đạt đến cõi trên như thuyền nhỏ vượt qua sông nhỏ.
- Thanh văn thừa: Đó là pháp môn Bốn đế.
- Duyên giác thừa: Đó là pháp môn mười hai nhân duyên, đều có công năng vận chuyển chúng sinh ra khỏi ba cõi. Đến Niết-bàn hữu dư y, Niết-bàn vô dư y, thành A-la-hán và Bích-chi-phật, giống như thuyền lớn vượt qua sông lớn.
- Bồ-tát thừa: Đó là pháp môn bi trí Lục độ, vận chuyển chúng sinh vượt khỏi ba cõi cảnh giới ba thừa, đến bờ kia đại Niết-bàn Vô thượng Bồ-đề, như ngồi thuyền lớn qua biển.
Nay kinh Vu-lan-bồn này thuộc về nhân thiên thừa, nằm trong tạng Tiểu thừa.
III.- XÁC ĐỊNH TÔNG CHỈ
Kinh này lấy hiếu thuận thiết cúng, nhổ gốc khổ, báo ân làm tông. Ở đây chia ra hai môn.
- Giải thích hành tướng.
- Phối hợp số câu.
Đầu tiên là nói Mục-liên, vốn vì hiếu thuận thành kính muốn báo ân đức, năng lực chưa đủ cho nên trước xuất gia. Cho nên vừa chứng được sáu thần thông, liền quán khắp ba cõi thấy mẹ mình bị đọa vào loài quỷ đói, tuy thọ hưởng cơm thơm nhưng liền thành lửa dữ, buồn khóc cầu xin đức Phật, Phật dạy sắm sửa cúng dường Vu-lan-bồn, cứu vớt thân ra khỏi đường tối tăm, thoát khỏi một kiếp mong báo đáp ơn sinh thành nuôi nấng của cha mẹ nuôi con, xét kỹ ý chỉ kinh thì có đủ bốn nghĩa này.
Phối hợp số câu: có bốn lần bốn trường hợp.
Hai chữ hiếu thuận, tự có bốn trường hợp.
- Hiếu mà chẳng phải thuận, như dưỡng trong ba tánh…
- Thuận mà chẳng phải hiếu, như bệnh đòi thức ăn cấm liền cung cấp cho, muốn làm việc không nên làm mà không can ngăn…
- Vừa hiếu vừa thuận: Nghĩa là có ẩn không phạm, ba lần can ngăn mà thuận theo sắc, chỉ quán ba năm không đổi.
- Chẳng phải hiếu, chẳng phải thuận. Như hạng an táng cha trong nước.
Dùng tâm hiếu thuận thiết cúng, đối lại, lại có bốn trường hợp.
- Hiếu thuận mà chẳng thiết cúng, như Đổng ám vương tường…
- Thiết cúng mà chẳng phải hiếu thuận: vì mình cầu phước mà tu trai giới…
- Vừa hiếu thuận, vừa thiết cúng: tức là hội Vu-lan.
- Chẳng phải hiếu thuận, chẳng thiết cúng: Nghĩa là trái nghịch mà keo kiệt.
Vì hiếu thuận đối với nhổ gốc khổ, cũng có bốn trường hợp:
- Hiếu thuận chẳng phải nhổ gốc khổ. Nói Đổng Vĩnh…
- Nhổ gốc khổ, chẳng phải hiếu thuận: nói cứu nỗi khổ cho người khác.
- Vừa nhổ gốc khổ vừa hiếu thuận, tức là hội Vu-lan.
- Chẳng phải nhổ gốc khổ, chẳng phải hiếu thuận: Như người trái nghịch thấp hèn.
Vì hiếu thuận đối với báo ân, cũng có bốn trường hợp:
- Hiếu thuận chẳng phải báo ân, giữ gìn da tóc, không kiêu ngạo, chẳng phải pháp không nói.
- Báo ân chẳng phải hiếu thuận, giúp đỡ ăn uống, tu hành đền ơn thí chủ…
- Vừa báo ân vừa hiếu thuận như hội Vu-lan-bồn.
- Chẳng phải báo ân, chẳng phải hiếu thuận là người trái nghịch, phụ ân.
Nay tu pháp Vu-lan-bồn này, tròn bốn hạnh được công đức, đâu có gì so sánh được? Thực nhờ cảnh tốt đẹp, tâm rộng lớn, thấu suốt thần lý.
IV.- GIẢI THÍCH VĂN KINH
PHẬT THUYẾT
VU LAN BỒN KINH
Tây-Tấn, Tam-Tạng Pháp-Sư Trúc-Pháp-Hộ dịch
Trong chính giải văn kinh có hai:
Ban đầu giải thích đề mục; hai là giải thích văn bản.
- Trước giải thích đề mục: “Phật nói kinh Vu-lan-bồn”. Kinh này gồm có ba bản dịch.
(Võ Đế Đời Tấn, sát pháp sư dịch là kinh Vu-lan-bồn.
(Đời Tuệ Đế Pháp sư Pháp Cự dịch là kinh Quán Lạp, nên văn này nói: Đầy đủ trăm vị, năm thứ trái cây và các đồ dùng hương dầu đèn đuốc…)
Bản xưa ghi riêng, lại có một vị Sư dịch là kinh Báo Ân, y cứ theo hạnh thực hành mà đặt tên. Bản dịch ở đây sẽ giải thích chính là bản dịch đầu tiên. Tam tạng Nghĩa Tịnh nói: Ban ra nói từ miệng mình, tâm kia nhờ sự chỉ giáo hợp với căn cơ, nên gọi là Phật nói.
Vu-lan là tiếng Tây Vực, Hán dịch Đảo Huyền (treo ngược).
Bồn là âm Đông hạ, chính là đồ dùng để cứu giúp, hoặc tùy theo phong tục của địa phương nên nói cứu đảo huyền bồn (cứu khổ treo ngược). Đây là do hồn mẹ Tôn giả chìm trong đường tối tăm, vừa đói vừa khát mạng như treo ngược, cho dù oai linh của đệ tử bậc Thánh cũng không thể cứu giúp sự đau khổ. Phật dạy trong bồn đặt trăm thức ăn để hiến cúng ba ngôi báu, nhờ ân đức của đại chúng mà cứu nỗi khổ gấp treo ngược, tức lấy nghĩa này mà đặt tên kinh.
Kinh gọi đúng là tuyến, nghĩa là Khế kinh, tuyến là sợi chỉ để xỏ hoa, sợi dọc để giữ sợi ngang, tức nghĩa sở thuyên như sợi ngang, ví như hoa. Văn năng thuyên để giữ gìn sự xâu suốt, nay thuận theo kinh sách của Trung Quốc thì dùng đề mục gọi là kinh, mượn nghĩa giúp tên, vẫn thêm chữ khế, ở đây giải thích phù hợp với luận Phật địa. Nghĩa là xuyên suốt trong hai nghĩa. Nghĩa là kết thành tràng trong năm nghĩa của luận Tạp Tâm.
- Giải thích bản văn:
Phần giải thích bản văn chia làm ba:
- Phần tự.
- Phần Chánh tông.
- Phần Lưu thông.
PHẦN TỰ
Văn như thị: nhứt thời Phật tại Xá-Vệ quốc, Kỳ-thọ Cấp-Cô-Ðộc viên.
Ðại Mục-Kiền-Liên, thỉ đắc lục thông, dục độ phụ-mẫu, báo nhũ bộ chi ân.
Tức dĩ đạo-nhãn quán thị thế-gian, kiến kỳ vong-mẫu sanh ngạ-quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập.
Mục-Liên bi ai, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ-mẫu.
Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ suy tự.
Tự vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực.
Tôi nghe như vầy: Một lúc nọ, đức Phật ở trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tại nước Xá Vệ.
Ông Đại Mục Kiền Liên vừa mới chứng được sáu pháp thần thông ông muốn cứu độ cha mẹ của ông để đền đáp công ơn bú mớm.
Ông liền dùng đạo nhãn xem khắp trong thế gian, thấy bà vong mẫu của ông sanh vào trong loài ngạ quỷ chẳng được uống ăn, thân thể ốm gầy da bọc lấy xương.
Thấy thế, ông Mục Liên chẳng xiết xót thương, liền lấy bình bát đựng cơm đem dâng cho mẹ ông.
Mẹ ông tiếp được bình bát cơm, bèn dùng tay trái che bát, tay mặt bốc cơm.
Cơm của bà bốc chưa vào đến miệng đã hóa thành than lửa, bà ăn không đặng.
TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY :
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng ĐẠO NHÃN dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.
SỚ GIẢI :
Vì sự phân chia ba phần nên sự phân chia của ngài Di Thiên phù hợp với Tây Vực, xưa nay cùng đều. Trong phần tựa ở đầu các kinh phần thường có hai lời tựa.
1. Tựa chứng tín:
Nói ta nghe Đức Phật nói pháp như vậy, khi nói, chỗ nói rõ ràng, đại chúng cùng nghe chẳng lầm, để làm chứng cứ khiến người khác nghe thọ. Kinh không có y cứ, không có chứng tín thì không truyền, do vậy ở đầu kinh phải có chứng tín, cho nên luận Trí Độ chép: Khi nói mới khiến cho người sinh tín.
2. Tựa phát khởi:
Là cách phát minh làm kính tin chánh tông. Như các loại lọng báu trong kinh Tịnh Danh và ánh sáng từ sợi lông trắng của kinh Pháp Hoa. Song chứng tín cũng gọi là tựa chung, các kinh đều giống nhau. Cũng gọi là bài tựa sau kinh. Khi Phật nói pháp thì chưa có. Phát khởi cũng gọi là tựa riêng, các kinh đều khác nhau, cũng gọi là bài tựa trước kinh, Phật trước tự phát khởi, mới nói phần chánh tông.
– Trước là tựa chứng tín:
Nghe như vầy, một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn cây Cấp cô Độc, rừng cây Thái tử kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ, khi Phật sắp nhập Niết-bàn, A-nan thưa hỏi bốn việc, Đức Phật dạy nên để câu này, bốn việc đã hỏi, Đức Phật sẽ đáp từng câu một:
– Nương vào bốn niệm xứ.
– Lấy giới làm thầy.
– Mặc tẩn Tỳ-kheo có tánh xấu.
– Tôi nghe như vầy
Ở đầu tất cả các kinh đều ghi: “Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại chỗ nào đó và chúng bao nhiêu người…” các kinh phần nhiều có đủ sáu thứ thành tựu. Văn hoặc thiếu hoặc lược nhưng nghĩa phải đủ. Sáu thứ thành tựu gồm:
Tín thành tựu.
Văn thành tựu.
Thời thành tựu.
Chủ thành tựu.
Xứ thành tựu.
Chúng thành tựu.
Sáu duyên này không đủ thì giáo pháp không hưng thịnh. Phải đầy đủ sáu thứ này, cho nên nói thành tựu. Kinh này thiếu phần nêu chúng. Lại văn thành tựu ở đầu khác với kinh khác, đều là do ý của người dịch, hoặc nói pháp này ta nghe Phật nói, hoặc nói ta ở bên Phật nghe pháp như vậy, đều là từ ngữ chỉ cho pháp. Lại không nói tôi (ngã): Ý nói bậc Thánh đều chứng lý vô ngã. Các kinh có: Tức là A-nan tự chỉ năm uẩn là giả, không giống như ngã của tình chấp, cũng không có lỗi. Nghe nghĩa là nhĩ căn phát thức, nghe tiếng ngoài kia. Kế nói như vầy là tín thành tựu. Tín là nói việc ấy như thế, bất tín là nói việc ấy không đúng như thế, cho nên Tăng Triệu nói là lời tín thuận. Một thuở nọ: Thầy trò hội họp nói nghe rốt ráo, gọi chung là Một thuở nọ, để phân biệt với lúc khác. Nghĩa là Như Lai nói kinh, bấy giờ có vô lượng, không thể nêu riêng. Một là ý nói rộng khắp nên chỉ nói Một.
Thời phần ở các nơi dài ngắn không nhất định, nên nói chung là Một thuở. Nhưng trong các kinh không chỉ định thời, mà phải chỉ định xứ, có khi giải thích dẫn đến khó khăn cho nên không dùng. Nay rõ ý kia, dùng xứ thì không ngoài mười sáu nước, tùy chỗ đến giáo hóa mà có số ấy, là dễ nêu lên chỉ bày. Thời thì có năm tháng, xuân thu, nóng lạnh, ngày đêm, dần, mão, chốc lát, thay đổi nhanh chóng, chứa nhóm vô số lượng, không thể nói hết, khó nêu lên để chỉ bày. Phật, tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch là Giác, là người hiểu rõ tánh tướng của chân vọng. Giác có ba nghĩa:
– Tự giác ngã không: Để phân biệt với phàm phu.
– Giác tha pháp không: Để phân biệt với Nhị thừa.
– Giác mãn câu không hợp với bổn giác, gọi là rốt ráo giác, hoặc gọi Đại giác, Diệu giác, để phân biệt khác với Bồ-tát.
Tại Xá-vệ… là xứ thành tựu. Chân Đế ghi rằng: Trú xứ có hai:
– Cảnh giới xứ: Vì hóa sinh vào dòng của thế tục.
– Y chỉ xứ: Chỉ chung tất cả chúng xuất gia.
Ban đầu là Xá-vệ, sau đó là Kỳ viên. Luận Bà-sa chép: Nêu Xá vệ thì giúp người ở xa biết, nêu Kỳ viên thì giúp người ở gần biết. Xá vệ, Hán dịch là Văn vật, nghĩa là đầy đủ các vật quý báu, người học rộng giải thoát, xa nghe các nước. Kinh Kim cương do Nghĩa Tịnh Tam tạng dịch gọi đại thành. Kỳ viên… tức là cây của Thái tử Kỳ-đà cúng, vườn do Trưởng giả Cấp Cô Độc mua. Kỳ-đà, Hán dịch là Chiến thắng, là Thái tử con vua Ba-tư-nặc. Khi Thái tử sinh, vua đánh nhau với nước ngoài được chiến thắng, do đó mà đặt tên. Cấp Cô Độc là hiệu của vị quan ông vốn tên là Tu-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, nói Cấp Cô Độc, chính là Thiện Thí, lại thường thực hành bố thí nên gọi là Thiện Thí, người trong làng gọi ông bằng tên gọi đẹp đẽ Cấp Cô Độc. Nhưng vườn chính là do Tu-đạt mua, cây do Thái tử Kỳ-đà cúng, vườn chung cây riêng, trước hợp lại nêu vườn, nay vì lễ có tôn ti khác nhau, nêu cây trước vườn sau.
Tây quốc gọi tự (chùa) là Tăng-già-lam-ma, Hán dịch là chúng viên. Do Phật giáo truyền về phía Đông, ban đầu đến Trung Quốc, dừng lại chùa Hồng Lô, khách tăng nước ngoài từ từ đông hơn, phân tán ra ở nhiều chỗ ở khác, mà còn giữ hiệu cũ này thì đều gọi là Tự! Cấp Cô mua vườn và cây ấy: Kinh Niết-bàn chép: “Trưởng giả Tuđạt là người đi hỏi vợ cho con, đến thành Vương xá, nhân thấy Phật phát tâm, mời Phật đến Xá-vệ nói pháp, Đức Phật sai Xá-lợi-phất theo Cấp Cô trở về, trước chọn trụ xứ, chọn được vườn của Thái tử Kỳ-đà, Trưởng giả hỏi mua, Thái tử nói đùa: Đem vàng lót khắp mới bán.
Trưởng giả liền muốn giao vàng, Thái tử nói: Tôi nói chơi, liền nhờ người xử đoán việc này, người kia xử y theo lời nói trước đây, Trưởng giả chở vàng trải khắp, chỉ dư một góc, Thái tử thấy Trưởng giả không tiếc tài bảo, biết Phật là đấng tôn quý, liền cúng thí đất còn dư để lập tịnh xá, cúng thí cây trong vườn để làm bóng mát, hai người chung sức xây thành Tịnh xá, thỉnh Phật đến ở, nên gọi là Kỳ thọ… Thiếu chúng thành tựu vì văn sơ lược. Như kinh Vô Thường… nhưng có thời thì phải đủ đồ chúng, cuối kinh nói bốn chúng đệ tử vui mừng vâng làm.
– Sau Tựa phát khởi:
Phát khởi: Kinh này đã lấy hiếu thuận dứt khổ làm tông, nhờ duyên cứu mẹ mà làm phát khởi.
Văn chia làm sáu:
Mục-liên đã chứng đạo quả.
Biết ân muốn báo đáp.
Tìm kiếm khắp nơi.
Thấy được nơi mẹ ở.
Buồn lo khóc lóc đến cứu.
Thói quen xấu hiện tiền.
1. Mục-liên đã chứng đạo quả:
Đại Mục-kiền-liên mới chứng được sáu thần thông, người này tên là Đại Mục-kiền-liên, đời Đường dịch là Thái Thúc Thị, nước ấy thời thượng cổ có vị Tiên thường ăn rau đậu, Tôn giả thuộc dòng họ ấy. Tên Ni-câu-luật-đà, tức là tên cây. Cha mẹ Tôn giả nhờ cúng tế thần cây này mà sinh tôn giả, nên lấy tên cây đặt tên Tôn giả. Tôn giả là con của quan phụ tướng trong thành Vương xá, người đương thời rất quý dòng họ ấy cho nên gọi là “Thị”. Mới chứng được sáu thần thông: Mới tức là vừa, vừa được Thánh đạo liền cứu độ cha mẹ. Vốn vì mẹ mà tu đạo, đạo tuy không khác, nhưng bản nguyện mỗi người đều khác, cho nên các vị Thánh không hẳn đều như vậy. Sáu thần thông gồm:
- Thần cảnh thông, trí chứng được cảnh thần, cũng gọi như ý thông, thân như ý mình, muốn đến thì đến ngay.
- Thiên nhãn thông.
- Thiên nhĩ thông, thấy được, nghe được, hoặc gần hoặc xa, nội chướng ngoại chướng, sắc, thanh…
- Túc mạng thông: Biết được việc nhiều đời trước của mình và người.
- Tha tâm thông: Đối với tâm định, tâm tán, hữu lậu, vô lậu, tất cả đều biết.
-Lậu tận thông: Biết được trong thân lậu hết, sáu thứ đều không trệ ngại nên gọi chung là Thông.
2. Biết ân muốn báo đáp:
Muốn cứu độ cha mẹ, báo đáp ân bú mớm, độ là độ thoát, nhưng hai chữ báo ân chỉ là nêu chung hư vị. Độ thoát chính là sự báo ân ấy, bú là bú sữa mẹ, mớm là cho ăn. Nhưng cha mẹ có xa gần, ân có nhẹ nặng, báo có phần báo toàn báo. Xa thì bảy đời cho đến nhiều đời, gần thì ngay đời này. Bảy đời được Ngoại giáo tôn sùng, người do hình chất làm gốc, lưu truyền thể nối nhau, vì cha mẹ trở lên là bảy đời, chỉ tôn trọng cha.
Theo chỗ y cứ của Phật giáo, thì người lấy linh thức làm gốc. Hình chất bốn đại là chỗ nương của linh thức, đời đời kiếp kiếp đều có cha mẹ, sinh dưỡng thân này, về trước cho đến cha mẹ bảy đời là bảy đời vậy. Nhưng chỉ gởi gắm ở trong thai mẹ, từ khi sinh ra về sau bồng ẵm, ôm ấp phần nhiều cũng là mẹ, cho nên nghiêng nặng về mẹ, vì vậy trong kinh chỉ nói báo đáp ơn bú mớm. Cho đến nhiều đời thì trong đó chỉ lấy tất cả cha mẹ sinh thân từ khi quy y Phật về sau, sinh ra thân ta tu đạo, khi các Đức Phật thành đạo, cha mẹ nhiều đời đều gặp gỡ nhau, nghe pháp được lợi ích. Ân có nặng nhẹ: Đời này cha mẹ nặng nhất, còn lại là nhẹ dần.
Báo có phần báo, toàn báo một đời hầu hạ nuôi nấng là phần, độ thoát nhiều đời là toàn báo, cho nên kinh nói: “Vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, đi khắp mặt đất, cũng không thể báo đáp ân đó”. Cho nên biết sự báo đáp đời này là phần báo; dù cho đồng với Mạnh Tông, cùng loại với Đỗng Vĩnh cũng chỉ là phần báo. Nay kinh nói: Muốn độ cha mẹ là ý giúp cho đắc đạo, muốn nói về toàn. Nói chung, nếu không báo đáp thì là người mắc tội bất hiếu, huống chi thêm việc nghịch, lại bàn phiếm ân của tất cả mọi người, kinh Hoa Nghiêm chép: Người không biết ân phần nhiều bị chết ngang trái.
Kinh Quán Phật Tướng Hải chép: Có ân không báo đáp là nhân A-tỳ, các ân còn như vậy, huống chi là cha mẹ, ân cha mẹ không thể so sánh, cho nên có bài thơ nói:
“Ngọn gió vi vu lay động ngọn cỏ
Xót thương ân cha mẹ sinh ta”.
Cho đến không có cha để nương cậy, không có mẹ để dựa nhờ, ra thì ngậm đắng, vào thì chưa đến, mẹ sinh ta ra, cha nuôi dưỡng ta, vỗ về ta, muốn ta khôn lớn, dạy dỗ ta, chăm sóc ta, nuông chìu ta, muốn báo đáp ân đức như vói lên trời cao không cùng. Cho nên Tam Tạng nói: Cha mẹ nghĩa cao trời, đất ân sâu như biển lớn. Vì thế nhất quyết phải ghi nhớ vào lòng, đền đáp ân đức công lao khó nhọc. Kinh Phụ Mẫu Ân Trọng chép: Cha mẹ ôm ấp mỉm cười chưa nói tiếng đùa, khi đói phải ăn chẳng phải mẹ không nhai, khi khát phải uống chẳng phải mẹ không cho bú… Tính kể ân mẹ như vói lên trời cao không cùng. Than ôi! Mẹ hiền làm sao báo đáp… còn đi đến đông tây, xóm làng, không thường về nhà, lòng mẹ hốt hoảng lo lắng, vú sữa chảy ra, liền biết ở nhà con ta nhớ ta, liền trở về nhà.
Hỏi: Xét văn Kinh này đơn giản mộc mạc, lại khuyên răn siêng những người nghèo hèn là vì sao?
Đáp: Quân tử tự mình hiếu thuận cho nên khuyên tiểu nhân. Lại nữa, quân tử có cái nghèo của gáo tre, đâu đề phòng những việc lặt vặt! Lại nói những lời khó khăn gian khổ mới làm sáng tỏ được công lao nuôi dưỡng. Lại nói: Con trẻ xa thấy mẹ đến, hoặc ngồi trên xe nghiêng đầu hớn hở, hoặc là kéo áo chạy theo.
Than ôi! Người mẹ, mẹ vì con trẻ mà khom mình chịu thấp, lớn lên hai tay bốc cát đất, miệng thì khóc la, mẹ vạch áo đưa vú cho con bú. Mẹ thấy con thì vui, con thấy mẹ thì mừng, tình cảm mẹ con yêu thương rất nặng, chẳng gì hơn thế, đã sinh trưởng bạn bè theo nhau, chải đầu vuốt tóc muốn có áo đẹp che phủ thân con, áo xấu cũ rách cha mẹ tự mặc, vải lụa mới đẹp trước cho con mặc, cho đến đi lại việc quan, mau mau vội vàng, tâm nghĩ nam bắc ruổi theo con khắp nơi, trên đầu tóc rối. Con dần dần lớn khôn, thì đòi lấy vợ, sinh được con cái, đối với cha mẹ trở nên lơ là. Trong phòng cùng nhau nói chuyện vui vẻ, cha mẹ tuổi cao sức yếu, từ sáng đến tối không đến hỏi han, hoặc cha mẹ cô đơn ở riêng phòng trống, giống như người khách nương nhờ nhà người, thường không thương yêu, hoặc không áo mền lạnh lẽo cay đắng, gặp nguy nan quá lắm!
Tuổi già sắc thân suy yếu thêm nhiều rận rệp, khuya sớm không nằm thở dài than vắn, đời trước tội gì, đời nay con bất hiếu. Hoặc khi cha mẹ gọi, nó trợn mắt tức giận, không chịu vâng theo, vợ con trách mắng cúi đầu ngậm cười. Phạm thiên, Đế Thích, các trời, nhân dân, tất cả chúng hội, nghe kinh vui mừng phát tâm Bồ-đề. Gào khóc động địa, lệ rơi như mưa.
Lời bình rằng: Suy nghĩ kỹ việc kia thật thay lời nói đúng. Hoặc có mẹ mà không bằng đứa con này, không như người kia, trong trăm không có một. Vì chúng sinh vô minh từ vô thỉ mê chân chấp vọng, vì cội gốc điên đảo, nhánh nhóc mỗi mỗi đều như vậy. Họa thay! Phàm ngu, làm sao độ được!
3. Tìm kiếm khắp nơi:
Liền dùng đạo nhãn quán sát thế gian, là quán xét chỗ sinh là thiên nhãn thông, do chứng đạo mà được cho nên nói là đạo nhãn. Thế gian có hai: Nói ba cõi là khí thế gian, sáu đường là hữu tình thế gian, nhưng Tôn giả ngày mất mẹ còn là phàm phu, chẳng biết cha mẹ sinh về đường nào? Nay chứng quả Thánh có thể tìm cầu. Vì thiên nhãn quán thấy từ trên xuống dưới trong ba cõi, tìm mẹ trong sáu đường, được thần thông liền quán, cho nên nói là liền.
4. Được thấy hiện tại:
Thấy vong mẫu kia đọa vào loài quỷ đói, không được ăn uống, chỉ còn da bọc với xương, vốn quán thế gian đều tìm cha mẹ, cha sinh về chỗ vui không nhờ cúng thí, đã chẳng phải tông chỉ của kinh cho nên ở đây không nói. Mẹ sinh đường quỷ đã thuộc ba đường, lại ở quỷ đói, là nơi khổ nhất của quỷ, dứt trừ khổ ấy chỉ có Vu-lan-bồn, phát khởi ý nghĩa chánh tông là ở đó. Đọa vào loài quỷ đói là quả dị thục, do đáp lại dẫn nghiệp. Không được ăn uống là quả đẳng lưu. Đáp lại dẫn nghiệp, là quả của nghiệp tham ăn. Còn da bọc xương là quả tăng thượng, y theo chánh lý mà luận: Quỷ vốn ở dưới năm mươi do-tuần của châu này, mỗi bề cũng bằng như vậy. Có quỷ Diệm-ma-la, từ đây xoay vần đến khắp các phương khác, ở nhân gian một tháng thì cõi này là một ngày, nương vào sự chứa nhóm nhiều năm nhiều tháng này mà sống lâu năm trăm tuổi. Nhưng quỷ có ba loại:
Vô tài quỷ: vì không có phước đức nên không được ăn.
Thiểu tài quỷ: được chút ít thức ăn uống ngon.
Đa tài quỷ: được nhiều thức ăn uống ngon.
Ba thứ quỷ này mỗi thứ lại có ba:
- Quỷ miệng đuốc: Lửa thường cháy hừng hực từ trong miệng tuôn ra, do đời trước đốt cháy xóm làng, thiêu đốt người hiền lương. Vì việc cầu tài vật này mà đọa vào địa ngục. Từ địa ngục ra lại đọa vào loài quỷ này. Cho nên kinh Chánh Pháp Niệm chép: “Niếu người san tham, ganh ghét chiếm đoạt tài vật của người, phá thành quách của người, giết hại tịch thu, cướp bóc được tài vật, dâng lên vua quan, càng thêm hung bạo, đọa trong loài quỷ lửa cháy.
- Quỷ cổ nhỏ như lỗ kim: Bụng lớn như núi, cổ nhỏ như lỗ kim, do phá trai ăn đêm, trộm cắp thức ăn của chúng Tăng, cho nên kinh Trai Pháp Thanh Tịnh chép: Ngài Mục-liên đi giữa đường gặp mấy trăm muôn con quỷ, đầu lớn như ngọn núi to…
- Quỷ miệng thối: Trong miệng có mùi hôi thối, tự làm ác chịu khổ, vì thường ham danh lợi, tự cho mình phải, người khác quấy, khen ngợi người ác, chê bai người hiền thiện. Y theo ba loại này, thà nuốt hoàn sắt nóng chứ không ăn dùng của tín thí, quỷ của thiểu tài có ba thứ là:
– Quỷ lông kim: Lông nhọn như kim, khi đi liền tự chích, vì tham lợi, nên châm cứu đại và chích súc sinh, chỉ vì cầu tài chứ không mong cho người hết bệnh.
– Quỷ lông thối: Lông nhọn hôi thối, tự nhổ chịu khổ, vì buôn bán heo dê, chưng hầm ngỗng vịt, nước sôi nung nấu rã ra từng mảnh, đau khổ khó chịu nổi, tội địa ngục hết rồi lại đọa vào đường quỷ này.
– Quỷ bướu lớn: Cổ nhỏ bướu lớn, tự móc lấy mủ mà ăn, do ganh ghét với người thường, ôm lòng tức giận.
Quỷ Đa tài có ba loại là:
- Quỷ được độ vất bỏ: thường được thức ăn do cúng tế vứt bỏ, vì tội nhiều phước ít, ít cúng thí, nặng về san tham, đồ vật quăng bỏ, mới đem cho người.
- Quỷ được mất: Thường được thức ăn còn sót lại, trong hang cùng ngõ hẻm, đối với tài vật hiện tại thường sinh tham đắm, nghĩ sắp mất rồi mới xả.
- Quỷ Thế lực: Như quỷ Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà… được hưởng các sự giàu có, an vui giống như trời, người, hoặc nương rừng cây, hoặc ở trong hang núi, hoặc ở linh miếu, hoặc ở hư không, thân thẳng bay đi, thuộc về đường quỷ, các thứ biến hóa này là do nhân địa tội phước không rõ ràng, nhân khổ vui xen nhau. Trong Phó Pháp Tạng chép: Tỳ-kheo, Tăng-già-da-xá, đi bên bờ biển lớn thấy cung điện tuyệt đẹp, cung điện ấy có khóa hai con quỷ… Nay mẹ của tôn giả, chính là quỷ miệng lớn trong quỷ vô tài.
Lại có chỗ nói: Ngạ quỷ có ba loại:
– Chướng bên ngoài: Khi được gặp nước liền thấy một người cầm dao, gậy… làm chướng ngại.
– Chướng bên trong: Miệng có đuốc lửa, hoặc cổ nhỏ như lỗ kim.
– Vô chướng: Thấy sông là lửa dữ, hoặc ăn phẩn nhơ, hoặc tự cắt thịt thân mình mà ăn… nay mẹ của tôn giả đang bị chướng bên ngoài. Trên đây các quỷ đều do nhân hạnh của tự tâm vời lấy, quả báo chắc chắn có ứng nghiệm. Ví như bóng và tiếng vang do nơi thân và âm thanh, dù cho cha mẹ cho đến bà con cũng không thể thay thế nhau được. Vì thế những người hiểu biết nên mỗi người khích lệ tâm mình. Nếu gặp duyên tốt không nên bỏ qua. Một mai qua đời thì ai là người tu hành. Dù nương nhờ con cháu bảy phần chỉ được một, huống chi không có con hiếu thảo! Hối hận sao tìm được!
Vả lại phàm phu đời vẩn đục ít người có tâm nhân hiếu, chỉ lo vợ con, đâu nghĩ đến (u linh) linh hồn người chết. Người nghèo hèn bị ép ngặt vì đói lạnh. Người giàu sang bị mê loạn bởi tài sắc, dù cho có thể truy phước đức thì lại nhàm chán công khóa nhiều, hết sức hết lòng muôn người không có một, đường đời tận mắt trông thấy đâu không xét rõ! Cho nên kinh Ân Trọng chép: Vợ chồng hòa hợp cùng gây ra năm tội nghịch, lúc ấy kêu gọi mau mau đi nhanh. Lời của cha mẹ kêu mười trái hết chín, không vâng theo lời, mắng nhiếc tức giận sống còn như vậy, chết rồi có thể biết. Mình đã bất nhân thì con mình làm sao hiếu được! Cho nên xưa có người tiễn đưa ông nội lên rừng vắng, còn giữ xe trở về, đem chuyện xưa xét việc nay tuy đường đi dấu vết khác nhau mà lòng thì giống nhau.
5. Cảm động khóc đến cứu:
Mục-liên buồn rầu liền lấy bát đựng cơm đem đến dâng cho mẹ. Bi ai: công ơn sinh thành nuôi dưỡng nặng như trên đã nói, chết rồi chia biệt, cách đời bỗng nhiên gặp lại, dù muốn dung nhan như cũ cũng đáng khóc lóc buồn thương, huống chi thấy hình quỷ da bọc xương, trong miệng khói lửa, trong bụng trống rỗng, khổ như treo ngược mạng chỉ thở hổn hển, đâu không thể nghiền thân đấm ngực khóc lóc gào thét, hận tội nghịch chỉ biết an nhàn trước mắt, đau xót sự chịu khổ của mẹ mình. Kinh nêu ý chung chỉ nói buồn thương. Xét kỹ lúc bấy giờ sao nghi không như thế! Cho nên Tam Tạng khoa nói là suy động. Giải thích rằng: Cảm động thấu xương tủy, kêu gào động trời đất. Bưng bát cơm đến cho mẹ ăn: mẹ đã kéo dài hơi thở thường rơi vào khốn khổ đói khát, vừa đói lại vừa khát, đúng lý phải cứu giúp, cứu đây là gấp cơm ăn là trước, cho nên lấy bát đựng cơm đem đến dâng mẹ.
6. Thói xấu hiện còn:
Mẹ được bát cơm liền đưa tay trái che bát, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng hóa thành than lửa đỏ hồng nên không ăn được. Cảnh tùy tâm thay đổi, quả dựa vào nghiệp mà thành. Nhân đói khát chưa dứt thì duyên no đủ đâu có được! Quỷ là miệng đuốc, thức ăn gần miệng mà hừng hực, nước thành băng cứng, băng gần nước sôi mà cứng như vậy. Cho nên biết thần lực không cấm được nghiệp lực. Dứt đói khát quan trọng lại dứt san tham, cho nên sáu thần thông đến dâng cơm mà với lấy tai ương, trăm vị bày biện trong bồn mà chịu khổ. Lớn thay nghiệp chín muồi suy nghĩ được ư! Nay tay trái che bát tham sợ xâm chiếm các thứ khác, tay phải bốc cơm tham lam chỉ để mình ăn, tham lam dữ dội hiện hạnh như vậy. Cơm canh duyên kém làm sao mà cứu giúp! Cho nên hóa thành lửa không ăn được. Trên đây phần tựa đã xong.
PHẦN CHÁNH TÔNG
Mục-Liên đại khiếu, bi hiều thế khấp, trì huờn bạch Phật, cụ trần như thử.
Phật ngôn : “Nhữ mẫu tội-căn thâm kiết, phi nhữ nhứt nhơn lực sở nại hà !
Nhữ tuy hiếu-thuận, thinh động thiên-địa, Thiên-thần, Địa-kỳ, tà-ma, ngoại-đạo, đạo-sĩ, tứ Thiên-Vương Thần, diệc bất năng nại hà !
Ðương tu thập-phương chúng Tăng oai-thần chi lực, nãi đắc giải-thoát.
Ngô kim đương thuyết cứu-tế chi pháp, linh nhứt-thiết nạn, giai ly ưu khổ.
Phật cáo Mục-Liên : “Thập-phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhựt, Tăng Tự-tứ thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện-tại phụ mẫu ách nạn trung giả, cụ phạn bá vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du, đính chúc, sàng phu ngọa cụ, tận thế cam mỹ, dĩ trước bồn trung, cúng-dường thập-phương đại đức chúng Tăng.
Ðương thử chi nhựt, nhứt thiết Thánh-chúng, hoặc tại sơn gian thiền-định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặc tại thọ hạ kinh-hành, hoặc lục-thông tự-tại giáo-hóa Thanh-văn, Duyên-giác, hoặc thập-địa Bồ-tát đại-nhơn, quyền hiện Tỳ-kheo tại đại-chúng trung, giai đồng nhứt tâm thọ bát-hòa-la phạn, cụ thanh-tịnh giới Thánh-chúng chi đạo, kỳ đức uông dương.
Kỳ hữu cúng-dường thử đẳng Tự-tứ Tăng giả, hiện thế phụ-mẫu, lục-thân quyến-thuộc, đắc xuất tam-đồ chi khổ, ứng thời giải-thoát, y thực tự-nhiên.
Nhược phụ-mẫu hiện tại giả phước lạc bá niên.
Nhược thất thế phụ-mẫu sanh Thiên, tự tại hóa sanh nhập Thiên-hoa quang”.
Thời, Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ mông chú nguyện, nguyện thất thế phụ-mẫu, hành thiền-định ý nhiên-hậu thọ thực.
Sở thọ thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng Tăng chú nguyện cánh, tiện tự thọ thực.
Thời, Mục-Liên Tỳ-kheo cập đại Bồ-tát chúng, giai đại hoan-hỉ: Mục-Liên bi đề khấp thinh thích nhiên trừ diệt.
Thời, Mục-Liên mẫu tức ư thị nhựt, đắc thoát nhứt kiếp ngạ-quỉ chi khổ.
Ông Mục Liên kêu to, buồn rầu khóc lóc, vội vã trở về bạch với đức Phật, thuật đủ những việc như thế.
Đức Phật dạy rằng: "Tội căn của mẹ ông gây kết sâu nặng, chẳng phải thần lực của một mình ông mà có thể làm cứu được.
Dầu rằng ông có lòng hiếu thuận, tiếng tăm vang động cả trời đất, mà những vị thiên thần, địa kỳ, tà ma, ngoại đạo, đạo sĩ và bốn vị Thiên vương thần cũng không thể làm thế nào cứu được.
Cần phải nhờ đến sức oai thần của chúng Tăng ở mười phương, mẹ ông mới có thể giải thoát.
Nay Ta sẽ nói phương pháp cứu tế, làm cho tất cả kẻ bị hoạn nạn như thế, đều được thoát khỏi những sự buồn khổ ".
Đức Phật bảo ông Mục Liên: "Ngày rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ của chúng Tăng ở mười phương, đến ngày ấy người làm con phải nên vì cha mẹ trong bảy đời đã qua và cha mẹ trong đời hiện tại đang bị khổ trong vòng ách nạn, mà sắm những giường trải nệm chiếu, những bồn chậu đựng nước rửa, hương dầu, đèn nến, năm thứ trái, cơm canh trăm thứ những đồ ăn ngon lành nhứt trên đời, đựng vào trong bồn cúng dường cho hàng Đại đức Tăng ở mười phương.
Đang trong ngày đó, tất cả Thánh chúng: hoặc những người tu thiền nhập định ở trong núi, hoặc những vị chứng được bốn đạo quả, hoặc những người đi kinh hành dưới cội cây hoặc những bực Thanh văn và Duyên giác đủ sáu pháp thần thông tự tại giáo hóa, hoặc là hàng Thập địa Bồ tát Đại nhơn quyền hiện làm Tỳ kheo… đồng hội về ở trong Đại chúng đều đồng nhứt tâm lãnh thọ bát cơm, đạo đức của hàng Thánh chúng hoàn toàn giới hạnh thanh tịnh đó rất là rộng lớn.
Có người nào cúng dường cho hàng chúng Tăng Tự Tứ dường ấy, thì cha mẹ cùng lục thân quyến thuộc trong đời hiện tại của người đó được ra khỏi chốn khổ tam đồ, liền giải thoát hưởng thọ những đồ mặc, món ăn tự nhiên.
Như cha mẹ hiện đang còn sống, thời sống lâu trăm tuổi hưởng phước an vui. Còn cha mẹ trong bảy đời đã qua, đề được sanh lên cõi trời, hóa sanh tự tại vào trong cõi trời sáng đẹp".
Bấy giờ, đức Phật truyền chúng Tăng ở mười phương, trước phải vì người thí chủ mong chờ chú nguyện, cầu cho cha mẹ bảy đời, mà chuyên ý thiền định rồi sau mới thọ thực.
Lúc ban đầu thọ thực, trước hết để món ăn nơi trước đức Phật, hay để trước tượng Phật trong chùa tháp, chúng Tăng đồng chú nguyện xong, rồi mới tự thọ thực.
Lúc đó, ông Mục Liên Tỳ kheo và hàng đại Bồ tát đều rất vui mừng, tiếng buồn rầu khóc lóc của ông Mục Liên liền nín lặng.
Chính trong ngày đó, bà mẹ của ông Mục Liên được thoát khỏi một kiếp chịu khổ trong loài ngạ quỷ.
Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương TỤ TẬP,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn TRĂM VỊ trái cây NĂM MÀU
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng
Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu th
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.
Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng TỤ HỘI về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa
Người nào có sắm ra vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dưng.
Khi thọ-dụng nên an vật-thực
Trước PHẬT TIỀN hoặc tự THÁP TRUNG:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan
SỚ GIẢI :
Văn phần chánh tông chia làm hai:
– Mục-liên buồn rầu trình bày khổ nguy.
– Như Lai rộng bày lý do.
Mục-liên buồn rầu trình bày nguy khổ:
Mục-liên kêu gào buồn rầu than khóc trở về bạch Phật, kể lại đầy đủ như vậy. Con vội vàng bày tỏ với cha, thần vội vàng tỏ ý với vua, năng lực mình không thể, lý phải tìm đến Đức Phật, đệ tử siêng quán bốn đế, đã chứng ba minh, ngược lại có thể che núi sông, xoay chuyển mặt trời, mặt trăng, đâu lường trước mẹ chịu cực khổ! Mạng như treo ngược, con hiếu hết sức chí thành, dùng hết thần biến mà cuối cùng vẫn không thể dứt trừ ác báo, tạm cứu bụng đói. Cho nên kêu gào than khóc vội vàng trở về, trình thưa đầy đủ, đau xót thành khẩn.
Như Lai nói rộng bày lý do, có tám:
Như Lai rộng bày lý do. Lại nương vào ba tạng, đại khái chia làm tám đoạn:
- Nói về tội lỗi của người mẹ rất nặng.
- Nói đức con kém.
- Quở trách tà đạo không có năng lực.
- Nói lên có khả năng.
- Hứa khả cứu vớt.
- Chỉ bày chánh pháp.
- Con hiếu lĩnh ngộ.
- Mẹ được lợi ích.
1. Nói tội lỗi người mẹ rất nặng:
Phật dạy, mẹ ông gốc tội sâu dày. Trong kinh nói: Thời Đức Phật Định Quang, Mục-liên tên La-bặc (Bốc) mẹ tên Thanh-đề lúc La-bặc sắp đi dặn dò mẹ rằng: Nếu có khách đến mẹ nên chuẩn bị đãi cơm đầy đủ. Khi La-bốc đi rồi, khách đến thì người mẹ không cung cấp, mà nói dối là có cúng dường thức ăn. Con trở về hỏi: Hôm qua khách đến sao mẹ không làm đầy đủ, mẹ nói: Con không thấy bữa tiệc đó ư! Từ đó về sau trong năm trăm đời san tham nối nhau, cho nên nói rằng tội nặng sâu dày. Tội là nghiệp của thân, miệng, căn là lòng san tham, nhiều đời nối tiếp nhau là sâu. Liền với nhau vững chắc khó mở ra gọi là kết. Từ san tham khởi lên đều là tội nghiệp. Chẳng phải chỉ vào thời ấy một lần nói dối. San tham là gốc khổ, việc làm là nghiệp khổ, quỷ đói là quả khổ, là ba đường. Nếu y theo mười giới trọng, thì san cũng là nghiệp, chỉ có tham là gốc, dấy lên tội nghiệp.
Hỏi: Trong năm trăm đời san tham nên làm người làm quỷ phải không.
Đáp: Người quỷ xen nhau, tạo chịu giúp nhau hoặc chỉ cho thân người không gọi là ác báo, hoặc chỉ có thân quỷ không nên tạo nghiệp, hoặc chỉ là súc sinh đối với lý không ngại. Nhưng thói san tham không dứt nên gọi là nối nhau.
Hỏi: Mục-liên từ thời Phật Định Quang đến nay, mẹ sinh ra không phải một, vì sao chỉ cứu Thanh-đề kia!
Đáp: Thanh-đề và Mục-liên có nhân duyên sâu sắc, đời nay lại là mẹ của Mục-liên, chỉ cứu mẹ đã sinh ra thân đời này chẳng phải cứu Thanh-đề đời xa xưa hay sao? Các luận nói đều là chưa đạt.
2. Nói con đức kém:
Chẳng phải một mình năng lực của ông mà làm gì được, mẹ ông tâm san tham, tham với tất cả, thời gian trải qua nhiều đời, sự việc trải qua nhiều người, một mình ông làm sao cứu vớt được!
3. Quở trách tà đạo không có năng lực:
Ông tuy hiếu thuận nói tiếng khắp cả trời đất, thiên thần, địa kỳ, ngoại đạo, tà ma, đạo sĩ, bốn Thiên vương thần, cũng không thể làm thế nào được. Tam Tạng nói: Cho dù ông cảm đến thiên linh ở cõi trên, động đến địa kỳ ở phương dưới, dù nhiếp tà ma hoạnh la ngoại đạo, chung cả sáu hợp làm cùng một nhà, gom chung tám bộ làm thành chúng. Nhập lại thần lực kia cũng không làm thế nào được! Đạo sĩ ngoại đạo là đạo sĩ của ngoại đạo. Phân biệt với đạo sĩ của nội đạo. Phật giáo lúc đầu truyền đến Trung quốc, gọi tăng là đạo sĩ. Bốn Thiên vương là Tỳ-sa môn… giữ gìn thế giới.
4. Nói lên có khả năng:
Phải nhờ đức oai thần của chúng tăng trong mười phương mới được giải thoát. Tam tạng nói: một sợi tơ không thể tạo tượng, phải nhờ nhiều sợi tơ. Một người không thể trừ nghiệp, phải nhờ nhiều đức. Nay nói rõ văn kinh trước sau, do tà chánh, một nhiều đối nhau mới có bốn trường hợp:
- Chánh nhưng không nhiều, đây không thể cứu được. Trước một mình ông chẳng làm thế nào được.
- Nhiều nhưng chẳng chánh cũng không thể cứu được, tức là trước thần kỳ, tà ma ngoại đạo….ở trước.
- Vừa nhiều vừa chánh: Thì mới cứu được, tức là mười phương tăng.
- Không nhiều không chánh, rõ ràng không thể, cho nên không có trong văn kinh.
5. Hứa khả cứu vớt:
Nay Ta sẽ nói pháp cứu giúp, khiến tất cả các tai nạn đều không còn lo lắng buồn khổ. Nay sẽ nói: chính là lời đồng ý. Pháp cứu giúp: Là việc hứa khả. Khiến cho tất cả… là cái nỏ ngàn cân, không riêng là chuột chù phát cơ, tôn quý của ba cõi, đâu chỉ giúp cho mẹ ông lìa khổ?
6. Chỉ bày chánh pháp:
Trong chỉ bày chánh pháp chia làm hai:
- Trước dạy pháp hiến cúng của người con hiếu.
- Sau dạy nghi thọ cúng của chúng tăng.
Trong phần đầu lại có năm:
- Chọn lúc tốt.
- Phát tâm cao siêu.
- Bày cúng dường đúng pháp.
- Khen ngợi ruộng tốt.
- Được lợi ích tốt đẹp.
Nghĩa là ngày tự tứ là lúc tốt. Như mặt trăng mùa xuân, tâm hiếu là ý tốt. Như hạt giống tốt mới, trăm món ăn năm thứ trái cây… là cúng dường đúng pháp. Như trâu cày giỏi lấy đó cúng dường. Như có thể cày cấy, hiền Thánh là ruộng tốt. Như đất phì nhiêu, cha mẹ bà con quyến thuộc còn và mất, cho đến bảy đời xa lìa khổ sinh lên cõi trời là lợi ích tốt đẹp. Như ngàn chái muôn hộc, mùa thu gạt hái, mùa đông cất giữ. Ý Văn kinh mạnh mẽ, đâu không phải như thế! Người trí thấy rõ, như chỉ tay trong lòng bàn tay.
Trước chỉ dạy pháp cúng dường của người con hiếu, có năm:
Chọn lúc tốt:
Phật bảo Mục-liên ngày rằm tháng bảy là ngày chúng tăng trong mười phương tự tứ. Tiếng Phạm là Tăng-già, Hán dịch là Chúng hòa hợp, nghĩa là nếu chúng mà không hòa, như những người buôn bán, các quan lại và quân đội… đều không gọi là Tăng bảo. Nếu hòa mà không đủ chúng, như hai người cùng một lòng, cũng chẳng phải Tăng bảo. Chúng mà hòa hợp là nhân phước đức, mới gọi Tăng bảo. Hòa hợp ở đây có sáu thứ là thân hòa đồng sự, ngữ hòa đồng mặc, ý hòa đồng nhẫn, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân. Nhà Nho nói tiểu nhân quân tử, hoặc là hòa hoặc là đồng. Nay Tỳ-kheo Thích tử vừa hòa vừa đồng. Nay nói mười phương: Pháp không hạn cuộc đâu ngăn cách thân sơ. Chúng Tăng: Tiếng Phạm đời Đường chú trọng nêu lên sự khiêm tốn của người dịch.
Ngày rằm tháng bảy: an cư ba tháng hạ xong thì tự tứ, tự tứ có ba ngày: đó là ngày mười bốn, mười lăm, mười sáu, ở đây nêu lên ngày ở giữa. Đây thừa chữ tăng, bỏ đi thì câu lại thiếu, cũng là chỗ sai của người dịch. Vì sao không nói khi cùng tự tứ! Tự tứ là lỗi của mình tha hồ được người khác nêu ra, nghĩa là một hạ an cư, chín tuần gia hạnh, không chứng bốn quả thì cũng được bốn thiền, Đức Phật lập ra giáo môn bổn ý như thế, chúng Tăng thời chánh, tượng mạt pháp đều như vậy. Tuy sau năm trăm năm, cũng có vị giữ giới tu phước.
Nhưng muốn thoát khỏi biển khổ thì phải cẩn thận giữ gìn phao nổi, vẫn còn sợ hạn cuộc vào bến mê, phải nhờ sự quán xét được mất ở bên ngoài. Dù không dứt hoặc chứng quả nhưng vẫn hy vọng tội diệt phước sinh, vén y bày vai phải ở trong chúng bạch đại đức trưởng lão, hoặc thấy lỗi của tôi, hoặc nghe tội của tôi, hoặc nghi tôi có phạm, xin tha hồ nêu lên, thương xót nói cho con, con sẽ sám hối, như thế thì thân tâm thanh tịnh, giống như lưu li, huống chi thiền định giải thoát đều được, cúng dường người này thì lực dụng có thể biết là dường nào, đâu không thể cứu được người còn kẻ mất, giúp đỡ hiện tại?
Cho nên Tam tạng nói: Ngày thọ tuế (nhận tuổi hạ) của Tỳ-kheo là lúc đại chúng tự tứ, chúng Tăng phần nhiều chứng được một trong bốn quả, cho nên có khả năng cứu độ trong bảy đời.
Phát ý cao siêu:
Sẽ vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tại đang trong cơn nguy khốn, sẽ vì là tâm năng cứu, cảnh sở cứu của bảy đời về sau. Y theo cảnh mà nói về tâm nên nói là thắng. Về bảy đời cha mẹ sở sinh không giống nho giáo chọn lấy tổ tông đời trước. Trong cơn nguy nan, là chung cho kẻ còn người mất, mất thì địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, còn thì đau ốm giam cầm, đều gọi nguy nan. Cha mẹ bảy đời mặc dù đã xa, đều là người đã sinh ta tu đạo, đã nhờ nuôi dưỡng sao lại phụ công ơn sâu dày! Cho nên tam tạng nói: Trời đất che chở, đã không sợ mệt nhọc, âm phủ và dương gian chìm đắm trong biển khổ, lý hợp với đáp là không cùng.
Bày cúng dường đúng pháp:
Sắm sửa đồ cúng dường đúng pháp, cơm đủ (thức ăn) một trăm vị năm thứ trái cây các thứ đồ dùng tắm gội dầu thơm, đèn đuốc, đồ nằm, ghế ngồi, tất cả đồ ngon ngọt để vào trong bồn cúng dường đại đức chúng tăng trong mười phương. Cơm đủ trăm vị là nêu chung, như người sắm bữa tiệc lớn mời khách đến chỉ nói ăn cơm, cho nên cơm là gồm chung trăm vị. Trăm là số nhiều chẳng phải nhất định một trăm.
Năm thứ quả là:
Quả có hạt như táo, hạnh, đào, mận…
Quả có da như dưa hấu, lê, táo…
Quả có vỏ cứng như hồ đào, thạch lựu..
Quả có vỏ cám như tô nhậm…
Quả có sừng như củ ấu, đậu…
Như trên đều dùng lưỡi để nếm vị. Vật để múc nước là những đồ dùng để tắm gội và ghế ngồi, đồ nằm, đều do thân cảm biết. Hương là mùi do mũi ngửi, dầu đèn đuốc… là vật đốt. Dùng mắt thấy được, cũng có thể là thoa dầu thơm vào thân, cũng thuộc về thân, Tây Vực như thế. Tất cả thứ ngon ngọt trên đời cũng thuộc về lưỡi. Từ trên đến đây trong năm thứ ham muốn chỉ thiếu âm thanh. Từ ngữ trên đời là rõ ràng ý thú kia, có hai thứ tận: là giàu sang thì sở hữu của suốt đời, có thì phải cầu, nghèo hèn thì hết sức làm cho bằng được và phải tìm kiếm, biết được vật không nhất định nhiều ít, chỉ làm hết lòng mình, cũng giống như kia thụ hưởng đối với việc chí thành làm sáng tỏ đạo đức. Để trong bồn là người dịch kinh lầm, làm sao ghế ngồi để trong bồn chẳng được!
Nên nói: để trong hội cúng Vu-lan. Hai câu cúng dường là nói về hạnh. Theo bổn ý của kinh thì chỉ đem vật thọ dụng được để cúng dường đại đức tăng, không cần vòng ngọc điêu khắc chạm trổ, lụa là quý giá… cho nên Tam Tạng nói: ông phải sắm đủ bốn việc, như vật đẹp tám thứ quý báu, trải qua mười phương mà vận dụng tư tưởng, lắng lòng mà cúng dường.
Khen ngợi ruộng tốt:
Vào ngày này tất cả Thánh chúng, hoặc đang thiền định trong núi, hoặc chứng được bốn đạo quả, hoặc đang kinh hành dưới gốc cây, hoặc chứng được sáu thông tự tại, chỉ dạy giáo hóa Thanh văn, Duyên giác, hoặc Bồ-tát Thập địa đại nhân quyền hiện Tỳ-kheo ở trong đại chúng đều cùng nhau nhất tâm nhận cơm trong bát hòa-la, đầy đủ Thánh chúng giới đức thanh tịnh. Hai câu đầu y theo lúc người khen ngợi mà nêu chung, hai câu cuối dùng oai nghi khen ngợi người mà tổng kết.
Chặng giữa người pháp có năm cặp đối nhau, nhưng văn không có thứ lớp nghĩa là xứ có trong núi, dưới cây chứng có cặp bốn quả, sáu thông, hạnh có cặp lợi mình, lợi người, học có cặp giới, định, người cặp có lớn, nhỏ, cũng gọi đối quyền, thật, lại nói chung không ngoài người pháp. Nói đối ba học, ba thừa, từ ban đầu cho đến bốn quả thiền định. Kế là từ hoặc ở dưới cho đến tự tại giáo hóa trí tuệ, đều giống như ba câu tịnh giới ở dưới.
Ba thừa: Tức là Thanh văn, Duyên giác, thập địa đại nhân, đều cùng nhất tâm là ý hòa hợp. Nghĩa là khi thọ cúng đều cùng đem hết tâm hổ thẹn, ân nặng, tâm từ bi cứu giúp báo ân. Người thì tuy địa vị có phàm Thánh, đức có tốt, kém, mà sự vận tâm thì một không khác, nên nói là đồng. Nhận cơm bát hòa-la: Cơm trong bát, tiếng Phạm nói Bát-đa-la, Hán dịch là Ứng lượng khí chữ hòa là sai. Thời nay chỉ gọi bát là nói lược. Đề kinh nói bồn, tức là bát. Khi dịch tùy theo phong tục, tựa đề nói là bồn, bồn và bát đều là đồ đựng. Tam Tạng giải thích đề dịch là “cứu khí”, câu này trong kinh nói tự tứ đại đức nhận cúng Vu lan-bồn.
Được lợi ích tốt đẹp:
Nếu có cúng dường chúng tăng tự tứ này cha mẹ bà con quyến thuộc đời này, được ra khỏi khổ ba đường (ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) ứng thời giải thoát, cơm áo tự nhiên. Hoặc cha mẹ hiện tại: Phước lạc trăm năm, hoặc cha mẹ bảy đời được sinh lên cõi trời, hóa sinh tự tại lên tầng trời Thiên Hoa Quang. Vừa xướng kinh này có hai ý nhỏ: một nửa đầu tiên: nhờ năng lực của bi nguyện mà xa lìa khổ, một nửa sau là nhờ năng lực của từ nguyện mà được vui, trong vui có sự khác nhau giữa người còn và mất.
Đầu tiên nói chúng Tăng tự tứ này là chỉ năm cặp trước đã nói. Cha mẹ hiện tại là chỉ cho cha mẹ sinh ra thân này, chẳng phải nói chưa mất gọi là đời nay, cho nên chỉ được lợi ích là ra khỏi ba đường. Cha mẹ hiện tại chưa mất trở xuống tự có văn nói phước lạc một trăm năm, không nên lại nêu tam tạng hiểu lầm, cho nên giải thích khác, rất chẳng phải ý văn. Sáu thân là cha, mẹ, anh, em, chồng, vợ, quyến thuộc, tất cả thân thích là kể cả trong ngoài. Giải thoát ra khỏi ba đường là nói chung xa lìa khổ. Cơm áo tự nhiên là vượt qua ba đường, sinh lên cõi trời, cõi người, cho nên thuộc văn cứu khổ, cũng có thể được vui thuộc đời sau. Hoặc cha mẹ trở xuống là nói còn mất được vui, lời văn rất dễ hiểu. Thiên Hoa Quang là ánh sáng nhiệm mầu trên trời, lược chỉ cho sự vui sướng.
Hai là chỉ dạy nghi thức chúng Tăng thọ cúng dường.
Đức Phật bảo chúng Tăng mười phương, trước tiên chú nguyện cho thí chủ, nguyện cha mẹ bảy đời, hành thiền định ý rồi, sau đó nhận thọ thực. Khi chưa thọ thực, trước để trước Phật trong chùa tháp, chúng Tăng chú nguyện xong thì tự mình thọ thực. Trong đây, nửa trước là thanh tịnh ba nghiệp, nửa sau là đầy đủ Tam bảo, trước chú nguyện là khẩu nghiệp, thiền định là ý nghiệp, thọ thực là thân nghiệp. Trong phần sau, trước sau mới ăn, luật pháp như thế, tức là chữ thọ cũng thuộc pháp. Tháp: là từ ngữ sai của quốc gia vùng biên giới, nói đúng phải là Tốt-đổ-ba, Hán dịch là Cao hiển xứ, trong đây ý chung cho điện tháp, tháp để xá-lợi, điện thờ tượng Phật.
7. Người con hiếu lãnh ngộ:
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Mục-liên và chúng Đại Bồ-tát đều rất vui mừng, Mục-liên không còn buồn rầu khóc lóc, tịnh nghiệp đã thành thì chắc chắn lìa khổ. Xét nhân nghiệm quả như tiếng dội không sai, cho nên vui mà nín khóc. Như hình ngục ở đời dặn dò người có sức mạnh, tiền của đã được thì làm cho tâm vui.
8. Mẹ hiền được lợi ích:
Lúc bấy giờ, mẹ ngài Mục-liên, ngay trong ngày đó được thoát khổ quỷ đói trong một kiếp, Mục-liên nghe kinh chính là được sự chỉ dạy cúng dường Vu-lan, hợp với lúc khác, ở đây nói theo thứ lớp bèn là thoát quỷ đói, là người dịch kinh lược bỏ, ứng hợp với chánh tông chỗ cuối cùng nhà kết tập ghi rằng: Lúc bấy giờ, Mục-liên nghe như vậy, pháp này đã đến ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ cúng dường Vu-lan, cúng dường chúng tăng tự tứ rồi, mẹ ngài Mục-liên ngay trong lúc ấy được thoát khổ quỷ đói trong một kiếp, cho nên văn nghĩa đều hiển rõ. Cho nên Tam tạng nói: Con hiếu đã dâng cúng vào buổi sáng này, người mẹ bèn dứt được ương lụy ngay ngày ấy. Rộng lớn thay năng lực của bậc Thánh, nhanh chóng như thế. Quỷ đói kia chịu khổ trải qua nhiều kiếp, đợi xem xét rồi sẽ trình bày.
PHẦN LƯU THÔNG
Mục-Liên phục bạch Phật ngôn : “Ðệ-tử sở sanh mẫu đắc mông Tam-Bảo công-đức chi lực, chúng Tăng oai-thần chi lực cố.
Nhược vị-lai thế, nhứt thiết Phật đệ-tử, diệc ưng phụng Vu-Lan-Bồn, cứu độ hiện-tại phụ mẫu nãi chí thất thế phụ mẫu, khả vi nhĩ phủ ?”.
Phật ngôn : Ðại thiện khoái vấn ! Ngã chánh dục thuyết nhữ kim phục vấn.
Thiện-nam tử ! Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Quốc-vương, Thái-tử, Đại-thần, Tể-tướng, Tam-công, bá quan, vạn dân, thứ nhơn hành từ-hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh hiện-tại phụ mẫu, qúa-khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhựt, Phật hoan-hỉ nhựt, Tăng Tự-tứ nhựt, dĩ bá vị phạn thực, an Vu-Lan-Bồn trung thí thập phương Tự-tứ Tăng.
Nguyện sử hiện tại phụ-mẫu thọ-mạng bá niên, vô bịnh, vô nhứt thiết khổ não chi hoạn, nãi chí thất thế phụ-mẫu ly ngạ quỉ khổ, sanh Nhơn Thiên trung, phước lạc vô-cực.
Thị Phật đệ-tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu nãi chí thất thế phụ-mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhựt, thường dĩ hiếu từ, ức sở sanh phụ mẫu, vị tác Vu-Lan-Bồn thí Phật cập Tăng, dĩ báo Phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân.
Nhược nhứt-thiết Phật đệ-tử ưng đương phụng trì thị pháp.
Thời, Mục-Liên Tỳ-kheo, tứ bối đệ-tử hoan hỉ phụng hành.
PHẬT THUYẾT
VU LAN BỒN KINH
BÁO PHỤ MẪU ÂN CHÚ
NAM-MÔ MẬT LẬT ĐA ĐÁ BÀ DẠ TÁ HA.
(7 BIẾN)
VU LAN KINH TÁN
| THẦN THÔNG TÔN GIẢ, MÃN BÁT TRÌNH THÂN, THỰC TÀI NHẬP KHẨU HỎA VIÊM THÂN, HIỀU KHẤP MẠC NĂNG THÂN, THÁNH-GIÁO PHU TRẦN, HƯỞNG TIẾN TRƯỢNG TỪ-TÔN. |
|
NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ
(3 XƯNG)
Ông Mục Liên lại bạch với đức Phật rằng: "Sanh mẫu của đệ tử nay do nhờ sức công đức của Tam Bảo và sức oai thần của chúng Tăng mà được khỏi khổ.
Còn về đời vị lai, tất cả đệ tử của Phật cũng phải phụng Bồn Vu Lan để cứu độ cha mẹ hiện tại nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời đã qua, làm như thế được chăng?".
Đức Phật nói: "Ông hỏi rất hay! Chính là Ta vừa muốn nói, mà ông nay hỏi liền.
Nầy thiện nam tử! Những người tu hạnh hiếu từ hoặc là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc là quốc vương, thái tử, quan đại thần, tể tướng, tam công, trăm quan, muôn dân, kẻ thứ thấp hèn… đến ngày rằm tháng Bảy, ngày đức Phật hoan hỷ, ngày chúng Tăng Tự tứ, đều nên trước vì cha mẹ hiện tại và cha mẹ trong bảy đời đã qua, mà sắm cơm và đồ ăn trăm vị thơm ngon để vào Bồn Vu Lan cúng dường cho chúng Tăng Tự tứ ở mười phương.
Cầu nguyện cho cha mẹ được sống lâu trăm tuổi, không đau ốm, không tất cả hoạn nạn khổ não, nhẫn đến cầu nguyện cho cha mẹ trong bảy đời đã qua thoát khỏi chốn khổ ngạ quỷ, sanh vào trong loài người, hoặc cõi Trời hưởng phước vui vô cùng.
Là hàng đệ tử của Phật tu hạnh hiếu thuận, trong mỗi niệm phải thường nhớ tưởng cha mẹ hiện tại, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời. Mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy, do lòng hiếu thuận thường nhớ tưởng đến cha mẹ đã sanh mình, vì cha mẹ sắm Bồn Vu Lan cúng dường đức Phật và chúng Tăng, để đền đáp công ơn từ ái nuôi nấng của cha mẹ.
Nếu làm đệ tử của đức Phật, tất cả phải nên phụng trì phương pháp báo hiếu nầy".
Bấy giờ, ông Đại Mục Kiền Liên Tỳ kheo và bốn hàng đệ tử đều vui mừng tuân theo thực hành.
(KINH VU LAN BỒN- HT. THÍCH TRÍ TỊNH DỊCH ÂM NGHĨA )
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỉ
Phải sắm sanh BÁ VỊ cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền
Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan
Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !
Phần lưu thông có ba:
- Bày thỉnh.
- Khen thỉnh.
- Đáp thỉnh.
Bày thỉnh: Mục-liên lại bạch Phật rằng mẹ con, nhờ công đức Tam bảo và năng lực oai thần của chúng tăng, nếu đời vị lai tất cả đệ tử Phật thực hành pháp Vu-lan-bồn để cứu độ cha mẹ, hiện tại cho đến cha mẹ bảy đời, làm như vậy được hay không? Khi nói lời này cũng là sau khi sắm sửa đồ cúng dường, chẳng phải việc trong một lúc, đến hang Tất-bát-la, mới bắt đầu tổng tập thành kinh. Mục-liên thương mẹ ngài và người khác, như Đĩnh Khảo Thúc can ngăn Trang công…
Khen thỉnh: Phật dạy: lành thay khéo hỏi, ta đang muốn nói, thì ông lại hỏi, câu đầu là nêu sự khen ngợi, lành thay khéo hỏi là hợp với lòng ngài, hai câu sau giải thích lý do, vì đang muốn nói liền gặp lời hỏi. Căn cơ cảm nhau, bí mật ứng nhau, cho nên nói khéo, bản ý của Phật là muốn nói đạo hiếu rất lớn, cứu khổ việc quan trọng, pháp Vu-lan cao quý, Đức Thế Tôn thấy duyên tốt căn cơ của đại chúng đã chín muồi có thể giáo hóa.
Đáp thỉnh: (đáp lại sự thỉnh mời): có năm.
1. Chỉ dạy khởi hạnh:
Này người thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, quốc vương, Thái tử, đại thần, tể tướng tam công, các quan, muôn dân, thứ nhân thực hành từ hiếu đều trước nên vì cha mẹ đời này, cha mẹ bảy đời quá khứ, ngày rằm háng bảy ngày là Phật vui mừng, ngày chúng Tăng tự tứ, để thức ăn trăm vị vào bồn Vu-lan để cúng dường chúng tăng tự tứ trong mười phương, tuy phẩm vật sang hèn ngăn cách đạo xuất gia tại gia khác nhau nhưng tự chẳng phải loài hóa sinh, loài thấp sinh, đều có cha có mẹ, loài chim anh võ còn biết nhớ ân, huống chi đạo luân thường của con người mà không cứu khổ! lợi hại của hiếu đã nói đầy đủ, đã biết đúng sai phải y theo chánh đạo, cho nên nói rằng nên trước vì người đã sinh ra ta. Theo quy định thì dạy phải làm, không làm thì trái với quy định. Vì thế cũng nên đối với chế giáo, tức là vì phán giáo trước cũng thuộc về luật tạng.
Nhưng Đức Phật không buồn vui, ngày này ngoài thị hiện vui vẻ là ứng với cơ duyên. Vì Đức Phật ra đời vốn chỉ vì khuyên người tu hành, thấy người làm ác thì buồn, thấy người tu thiện thì vui, nay các Tỳ-kheo chín tuần gia hạnh, ngày viên mãn lại càng chí thành, trong tam thiên đại thiên thế giới đều cùng như thế xưng với bản ý của Phật, tốt nhất là vui vẻ, ngày này sắm sửa cúng dường được phước rất lớn.
2. Chỉ dạy phát nguyện:
Nguyện cho cha mẹ hiện tại sống lâu trăm năm không bệnh tật, không có lo lắng tất cả khổ não, cho đến cha mẹ bảy đời lìa khổ ngạ quỷ, sinh lên cõi trời, phước lạc vô cùng, tu hành phải nhờ hạnh môn, điều đạt được phải từ tâm nguyện, nguyện là sự ưa muốn của tâm, muốn được người còn kẻ mất đều an ổn, người còn bảo đảm sinh mạng ở đời, thường không bị bệnh tật khổ não. Người mất thần thức sinh lên cõi trời, lìa hẳn đường tối tăm, hạnh nguyện giúp nhau, không có chỗ nào không được lợi ích.
3. Chỉ dạy thường làm:
Là đệ tử Phật tu hạnh hiếu thuận: Trong mỗi niệm thường (nhớ) nghĩ đến cha mẹ, cho đến cha mẹ bảy đời, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, thường vì từ hiếu nghĩ đến cha mẹ đã sinh ra ta, thực hành Vu-lan bồn cúng Phật và chúng tăng, để báo đáp công ơn sinh thành nuôi dạy thương mến của cha mẹ, là đệ tử Phật tu hạnh hiếu thuận rõ ràng trái lại với người chẳng phải đệ tử Phật và bất hiếu, mặc ý không sắm đồ cúng dường Vu-lan. Mỗi niệm thường nhớ nghĩ là không trước sau. Nuôi lớn là việc, thương mến là tâm, cho nên trước khởi hạnh và phát tâm nguyện báo đáp công ơn cha mẹ. Ngoài ra văn rất dễ hiểu. Tam tạng nói: cha mẹ kết ái mỗi niệm không lìa tâm, con hiếu báo ân, hằng năm không dứt sự cúng dường.
4. Khuyên thọ trì:
Nếu tất cả các đệ tử Phật, phải vâng hành đúng pháp này. Luận Trí Độ chép: sức tin là thọ, sức niệm là trì, nay nói phụng tức là nghĩa của thọ, nên phải là cố gắng hai năng lực này.
5. Vui mừng mà vâng làm:
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Mục-liên và bốn chúng đệ tử, vui mừng vâng làm. Bốn bối là Tăng, ni, cư sĩ nam, nữ, hoặc nói: người, trời, rồng, quỷ, nghi cả hai trường hợp này, nhưng hễ là sinh linh thì đều phải nương dựa, cho nên ân cha mẹ bằng với trời đất, đây tuy chí hiếu không được pháp môn ấy, nay được phương thuốc thần diệu, tin biết là linh nghiệm thì chắc chắn trừ được nguy hiểm khó khăn trong bảy đời, báo đáp công lao của cha mẹ, tự biết lòng mình có chỗ, vì thế vui mừng vâng làm theo. VU LAN KINH SỚ
Thiền sư Khuê Phong đời Đường, biết đạo hiếu phải dùng lời để chú kinh. Giải thích rộng hạnh chân hiếu của Đạo Phật, khiến người học phải báo đáp công ơn cha mẹ, không rơi vào sự hiểu biết khác, nhập vào thừa tối thượng của Phật, cho nên cao tăng nhiều đời, vào ngày tự tứ chỉ dạy người xuất gia tại gia, thiết hội Vu-lan làm bè nổi độ cha mẹ, thật là vâng theo lời sớ kinh đây, vui mừng cùng Từ Tự, Đông hiếu liêm kết thành hoằng pháp hội tập, các tể quan cư sĩ tiếp tục khắc in.
Trong đề mục ba trăm quyển, thích hợp lời sớ chưa khắc này, Lý Thái Bộc quyên tiền khắc bản. Tôi xem xét tạng nam bắc, câu văn không giống, nay y theo quyết định bản khắc của Đại sư Vân Thê, Đại sư chia khoa tiết mục ra phương pháp khác, nhưng Nam Bắc so sánh nhiều chỗ sai lầm nên không thể ghi chép, chỉ vài lời bạt giúp người xem xét chẳng những biết chỗ giống nhau và khác nhau của câu văn, mà còn nhờ ngón tay thấy được mặt trăng, được ý nghĩa báo ân đại hiếu của Phật, đó là sở nguyện.
Lời Bài bạt của Sa-môn Kế Khánh ở Tuyết Sơn thuộc Xích Thủy, Quý Châu.
Lược truyện về người soạn sớ.
Thiền Sư Khuê Phong Tông Mật ở núi Chung Nam, người huyện Tây Sung, thuộc Quả Châu, họ Hà, sinh vào niên hiệu Kiến Trung năm đầu đời Đường, tuổi nhỏ đã hiểu thông sách Nho, hai mươi tuổi đã nguyên cứu sách Phật. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ hai Sư sắp đi thi thì tình cờ đến chỗ Hòa thượng Đạo Viên ở Toại Châu đang giảng pháp, vui vẻ khế hội, liền cầu khai mở, ngay năm đó thọ giới cụ túc, truyền khế tâm ấn. Lại tham học khắp những vị có tài năng, để mở rộng tri kiến, soạn sớ sao các kinh như kinh Viên Giác, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết-bàn, kinh Kim cương, luận Khởi Tín, luận Duy Thức, kinh Vu-lan, Pháp giới quán, hạnh nguyện… và sưu tập thiền ngôn của các tông. Soạn Thiền Nguyên Thuyên và trả lời thơ kệ nghị luận… tất cả hơn trăm quyển, lưu truyền ở đời.
Trong niên hiệu Thái Hòa, đời vua Văn Tông, vua ban chiếu vào cung ban cho y tím, vua thường hỏi pháp yếu, kẻ sĩ kính mến, tìm mời về núi, đến ngày mồng sáu tháng giêng niên hiệu Hội Xương năm đầu, Sư ngồi nhập diệt tại tháp viện Hưng Phước, bốn chúng buồn rầu khóc lóc đau đớn, phụng toàn thân Khuê Phong trà-tỳ, được mấy mươi hạt xá-lợi rất to và sáng, thờ trong hang đá sáu mươi hai tuổi đời, ba mươi bốn hạ lạp, vua Tuyên Tông truy ban thụy hiệu Định Tuệ Thiền sư, tháp tên Thanh Liên, Sư có soạn bài kệ:
Làm việc có nghĩa là tâm tỉnh ngộ
Làm việc vô nghĩa, là tâm cuồng loạn
Cuồng loạn theo tình niệm
Khi mất bị nghiệp dẫn
Tỉnh ngộ không theo tình
Khi mất chuyển được nghiệp.
CHUNG
BÀI SỐ 9
Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp
BẢO CHÂU đền đáp cũng mong manh !
NHƯ Ý : Vì thương lo cho con, mà lắm khi CHA MẸ sát sanh gian dối, Tạo nhiều nghiệp ác.
TỬ LÂN pháp sư thở bé vì đầu thường Sinh rẻ, nên bà MẸ thường hay lấy chồng trắng trứng gà hòa với thuốc thoa để chữa trị, sau ngày xuất gia thành bậc cao tăng, được Đông Nhạc thánh đế cho biết vì lý do đó mà mẫu thân của ngài bị đọa HỎA ngục, pháp sư phải lễ tháp XÁ-LỢI của Phật ở chùa A-DỤC-VƯƠNG đến HÀNG muôn lạy để sám hối, mới độ thoát được mẹ sanh lên CÕI TRỜI, trong trường hợp đó đâu thể đem TỨ-SỰ cúng dường hay BẢO CHÂU mà cứu rỗi đền đáp được.
VÌ NHỚ ƠN CHA MẸ
Than ôi cha mẹ, sanh ta khó nhọc! Mười tháng mang thai mỏi nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Khi được nên người, chỉ mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ.
Ngờ đâu ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân. Cha mẹ còn, ta không thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi tưởng lại thì, nước trời đà cách biệt từ dung, mồ biếc chỉ hắt hiu thu thảo. Như thế với đời là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!
Nghĩ thế rồi, làm sao chuộc lại? Chỉ có trăm kiếp ngàn đời, tu Bồ Tát hạnh, mười phương ba cõi, độ khắp chúng sanh. Được như vậy, chẳng những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời, đều nhờ độ thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều người cũng được siêu thăng.
Đây là nhân duyên thứ hai PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM.
THẬT HIỀN ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Nhất Tổ)
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là ĐỊNH NGHIỆP.
ĐỊNH-BÁO
( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
Cho nên, chư Phật có “Tam năng” (ba việc làm được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).
Có ba việc làm được là :
1) Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp.
2) Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai.
3) Chư Phật có thể độ vô-lượng chúng-sanh.
Ba việc làm không được là :
1. Chư Phật không thể diệt được định nghiệp của chúng-sanh.
2. Chư Phật không thể độ những chúng-sanh vô duyên.
3. Chư Phật không thể độ hết chúng-sanh giới.
Bởi thế, "SỨC NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng "SỨC PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.
Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
Nếu chúng-sanh tín hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.
NHƯ VUA LƯU-LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA-NGỤC A-TỲ ( LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN-ĐOẠN).
Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật sự “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng không thể ngăn cản được.
Tóm lại, nếu qúi vị “THỰC HÀNH ĐÚNG THEO LỜI ĐỨC PHẬT DẠY” thì chuyển “ĐỊNH-NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC” thành “CHÚNG SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ?
“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị đã tạo.”
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không
Thế mới thật là chân sám hối.
LỜI BÀN:
Lại nữa, “Trong tâm chúng ta có cái gì thì bên ngoài có cái đó”. Nếu ta LỄ PHẬT, LỄ THÁP XÁ-LỢI, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ, NIỆM PHẬT, LÀM THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC…như “CÚNG-DƯỜNG” vào NGÀY RẰM THÁNG 7, rồi hồi hướng cho“CHA MẸ”...đã mất thì họ hưởng được QỦA LÀNH an vui giải thoát.
Nếu ta làm những VIỆC KHÁC VỚI THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC hồi hướng cho “CHA MẸ”... đã mất thì họ cũng hưởng được NHỮNG GÌ KHÔNG PHẢI LÀ THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nên không biết khi nào họ mới được an vui giải thoát đây?
Cho nên nói “Tất cả do tâm tạo” là vậy!
VƯƠNG NHỰT HƯU
Cư sĩ Vương Nhựt Hưu, tự Hư Trung, người ở Lư Châu. Triều vua Cao Tôn đời Tống, ông thi đỗ quốc học tiến sĩ, nhưng khước từ quan chức, về ở ẩn nơi quê nhà dạy học trò. Kế đó lại xếp bỏ việc giáo huấn, ăn chay trường, mặc áo vải, chuyên tu tịnh nghiệp.
Mỗi ngày cư sĩ khóa lễ Phật một ngàn lạy rồi niệm hồng danh.
Ông có trứ tác tập Long Thơ Tịnh Độ Văn, được lưu hành rộng nơi đời. Trong ấy lời lẽ giản dị, bao gồm nhiều thí dụ, khuyến hóa từ bậc vương công, quan liêu, sĩ tử, cho đến hàng thứ dân, đồ tể, nô tỳ, xướng kỷ, đều quy y niệm Phật. Cách lập luận của cư sĩ rất rõ ràng, tâm ý rất thành khẩn, khiến cho nhiều người cảm hóa tuân hành.
Năm Quý Tỵ trong niên hiệu Càn Đạo, ông Lý Ngạn Bậc ở Lư Lăng đau bịnh nguy ngập, mộng thấy một vị tự xưng là Long Thơ cư sĩ, bảo rằng:
“Khi thức dậy ngươi nên dùng cháo trắng, sẽ được an lành. Ngươi còn nhớ một thiện hữu là Khuyết Trọng Nhã đã khuyên về lối tu thẳng tắt chăng?”
Ngạn Bậc thưa:
“Vãn bối đã tuân hành theo, mỗi ngày đều có niệm Phật!” Sau khi thức giấc, ông bảo nấu cháo trắng ăn, quả nhiên bịnh thuyên giảm.
Ngạn Bậc liền dạy các con đến tìm Vương Nhựt Hưu để thọ huấn. Không bao lâu, các con trở về thưa:
“Long Thơ cư sĩ đã vãng sanh về Phật quốc. Ba hôm trước khi mãn phần, cư sĩ đi từ biệt khắp các thân hữu, khuyên họ tinh tấn tu hành, bảo mình sắp đi xa, không còn gặp nhau nữa. Tới ngày ông cho họp các môn sanh cũ lại giáo huấn, rồi khóa tụng như lệ thường. Đến canh ba, cư sĩ bỗng to tiếng niệm Phật vài câu, bảo:
“Đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn tôi!” Rồi đứng ngay thẳng mà hóa …”
Lý Ngạn Bậc thấy bức chơn dung của Vương Nhựt Hưu do các con mượn đem về, giống tạc người mình đã gặp trong giấc mộng, sanh lòng cảm kích, liền rước thợ khắc hình tượng Long Thơ cư sĩ, lại đem việc ấy truyền bá xa gần. Từ đó hàng thiện tín ở vùng Lư Lăng đều phát tâm niệm Phật.
Trong năm Hàm Hựu có ông Lư Nguyên Ích khắt lại bản Long Thơ Tịnh Độ Văn. Khi khác đến thiên Chúc Nguyện, nơi bản bộng nổi lên ba viên ngọc Xá lợi. Cha của ông là Lý Sư Thuyết có ghi chép việc ấy ở đầu thiên nầy.
BÀI SỐ 10
Ẩn tu nguyện trả nghĩa SONG ĐƯỜNG
Hồi hướng công phu mỗi khóa thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.
NHƯ Ý : NGHIÊM TỪ là Nghiêm-phụ Từ-mẫu, LIÊN-TRÌ đại sư bảo, ân nặng như non (Ngũ-Đảnh Tam-Sanh) chẳng đủ đền, Cha mẹ lìa Trần cấu, đạo con mấy thành tựu.
Ngũ-đảnh tức là Ngũ Đài hay gọi là núi Thanh Lương.
Chẳng vì PHÚ-QÚY lẫn cao-sang,
Cảm-cảnh mẹ hiền bệnh khổ mang.
Quyết-tâm lên tỉnh tìm phương thuốc,
Dứt bệnh MẪU-TỪ dạ mới an.
Việc “thoát trần” kia nay tạm hoãn,
Nghiên tầm y-dược cứu lầm-than.
Chắp tay hướng đấng TỪ-BI lễ,
ĐỘ-TRÌ thân-mẫu sớm an khang.
Bốn năm nương bóng chốn AM-THIỀN,
Với mọi duyên đời đã tịch-nhiên.
Kinh-kệ, mõ chuông lòng thấy tịnh,
Cam-lộ rửa sạch mối oan-khiên.
Chắp tay kính bạch lên Hòa-Thượng,
Vĩnh-kiếp lòng con dạ vẫn kiên.
Xuất tự để lo tròn hiếu niệm,
Tạm biệt hồi gia cứu mẹ hiền.
Khá khen HIẾU-NIỆM chẳng quên lòng,
Mười chín tuổi tròn vẹn ước mong.
PHÙ-TỤC lợi-danh từ đấy lặng,
Sớm đáo THIỀN-MÔN tách bụi hồng.
Ơn-nghĩa mẹ-cha đều báo-bổ,
Thiên-đường, Phật-quốc chép ghi công.
BỆNH mẫu-từ ngươi nay đã dứt,
Đò neo, bến đợi kịp sang sông.
Giã-từ cậu má (CHA MẸ) con ra đi,
Ơn-đức sanh-thành dạ khắc-ghi.
Bên gối dập đầu con bái-biệt,
LẠY chào cha-mẹ phút phân-ly.
Phân-ly con biết nói lời chi,
Xuất-gia, xuất-giá cũng đồng đi.
Bước chân chẳng dám quay nhìn lại,
E nổi thâm-tình lệ ướt mi.
Nhớ xưa Bồ-Tát Tất-Đạt-Đa,
Trốn cha, lìa vợ vượt Tỳ-La.
Sáu năm tu-tập nhiều gian khổ,
Đạo-quả tròn nên Phật Thích-Ca.
Tôi cũng theo gương đức Bạc-già,
Bán dạ độ hà trốn mẹ-cha.
Vì sợ tử-sanh cam lỗi đạo,
Nguyện đấng huyên-đường chẳng xót-xa.
Nương thuyền bát-nhã lướt sang sông,
Bỏ cả huyên-đường cả ước mong.
Song-thân giờ chắc còn an-giấc,
Xin hiểu cho con một tấm lòng.
Hướng chốn thiền-môn chân bước đến,
Duyên-trần xin tạ, việc đời không.
Đường quê mờ khuất sau ngàn sóng,
Khuất hết người quen chốn bụi hồng.
Tụ-tán xưa nay lý vẫn thường,
Mất còn, tan-hợp bận chi thương.
Bình tâm nghĩ lại đừng bi-lụy,
Năm tháng lạnh-lùng bạc tóc sương.
Nếu có nhớ con xin niệm PHẬT,
Phát lòng quy hướng chốn Tây-Phương.
Nguyền cho cậu, má tâm thường nhớ,
Cực Lạc là quê chỗ náu nương.
KHEN HÒA-THƯỢNG
NGƯỜI CON CÓ HIẾU
Báo-đáp sanh-thành, dưỡng-dục ơn,
THIỀN-TÂM, VÔ-NHẤT mấy ai hơn.
Khuyến-dắt song-đường tâm-đạo phát.
Niệm-Phật A-Di chí chẳng sờn.
Phương-liên rước mẹ về An-dưỡng,
Một sớm chào thầy đáo cõi chơn.
Nén hương kính-lễ khen Hòa-thượng,
Đạt-đạo hiền-tăng hiếu-tử nhơn.
Vô-Nhất Đại-sư
THÍCH THIỀN-TÂM
( Vô-Nhất : Lấy ý câu “ NHẤT SỰ VÔ-THÀNH THÂN TIỆM LÃO)
TRI LỄ
Tri-Lễ đại sư, tự Ước Ngôn, người đời Tống, con nhà họ Kim ở Minh Châu. Cha mẹ lễ Phật cầu tự, mộng thấy thần tăng bồng một đứa bé trao cho và bảo: “Đây là Phật tử La Hầu La. Nên trân trọng!” Không bao lâu, đại sư đản sanh.
Năm lên bảy tuổi, ngài mất mẹ, THƯƠNG KHÓC MÃI, RỒI THƯA VỚI CHA CẦU XIN XUẤT GIA. Từ đó, ngài đắc độ với Hồng Tuyển thượng nhơn tại chùa Hưng Quốc ở Thái Bình. Được vài năm, đến chùa Bảo Vân nương theo Nghĩa Thông Pháp sư học về Thiên Thai giáo quán, một phen nghe qua, tỏ suốt ý nghĩa viên đốn. Trong niên hiệu Thuần Hóa, Thông Pháp sư quy tịch, ngài được thỉnh làm tọa chủ chùa Càn Phù. Kế đó lại đến viện Bảo Ân, hoằng dương về giáo quán, học chúng các nơi nghe danh hội về đông đảo.
Vùng Minh Châu bị hạn lâu, đại sư cùng ngài Từ Vân họp nhau tu Quang Minh sám pháp, hẹn nếu ba ngày không mưa, sẽ tự đốt một cánh tay. Đúng kỳ hạn, quả nhiên mưa to tiếp tục đổ xuống. Trong ba năm, từ niên hiệu Đại Trung đến Tường Phù, ngài trùng kiến điện Bảo Ân. Khi lạc thành, được vua ban cho hiệu: Sắc Tứ Diên Khánh Tự. Năm Tường Phù thứ sáu, đại sư lập hội Niệm Phật Thí Giới, thân làm sớ văn để khuyên răng:
“Vẫn nghe: Một niệm dung thông, muôn pháp không ngại, nhân gây có khác, quả cảm thành sai.
Cho nên, thuận tánh tu hành, thì hiện mười phương Tịnh độ.
Theo tình tạo nghiệp, tất trôi sáu nẻo luân hồi!
Xét nghĩ cành duyên ở Ta Bà, phần giải thoát rất kém ít khó khăn, số đọa lạc lại dễ dàng đông đảo. Nên kinh nói:
“Được thân người như đất ở móng tay, đọa đường ác như đất miền đại địa!”
Tu đến ba thừa hạnh đủ, mới lìa bốn loại thọ sanh. Bởi trần cảnh mạnh thô, não phiền lừng lẫy, tự lực giải thoát, phỏng được bao người? Nếu sanh về Cực Lạc, thì cõi nước trang nghiêm, thân tâm thanh tịnh, thẳng đường thành Phật, chẳng đọa tam đồ. Kinh nói:
“Danh từ ác đạo còn không, huống chi có thật!”
Lại bảo:
“Chúng hữu tình sanh về nơi đây, đều là bậc A bệ bạt trí.”
Cho nên, muốn về An Dưỡng, phải niệm Di Đà, tu hạnh tinh tấn từ bi, tất được Phật nguyện nhiếp thọ. Đến khi xả báo thân, quyết sanh về Cực Lạc, đúng như lời KINH dạy, chẳng dám tự đặt bày.
Nay kết muôn người, để làm một xã, lòng lòng khẩn niệm, buổi buổi hạn kỳ. Mỗi tiết trọng xuân, họp về một chỗ, đồng nghe Phật pháp, đồng tu cúng dường, hiệp muôn lòng làm một chí, thành tịnh nghiệp thệ vãng sanh. Huống nữa mạng người trong kiếp trược, như ngọn đuốc giữa phong sương, một hơi thở chẳng vào, ba nẻo đường hiện trước.
Đâu nên tự buông lung, không nghĩ điều nghiệp báo. Phải gắng theo lời Phật, chớ thuận với tình đời. Duyên trần nguyện dứt kể từ nay, hiệu Phật chuyên trì đừng thối chuyển”.
Từ đó, mỗi năm vào ngày rằm tháng hai, chúng liên hữu đều câu hội lại chùa đồng tu tịnh nghiệp. Đại sư từng họp mười vị tăng, cùng tu Pháp Hoa sám pháp ba năm, hẹn ngày hoàn mãn, sẽ tự thiêu để cúng dường kinh và cầu sanh Tịnh độ.
Đến kỳ bị chúng cực lực ngăn trở, nên chí nguyện không thành. Sau ngài lại họp mười vị tăng, đồng tu ĐẠI BI SÁM ba năm, đốt ba ngón tay cúng dường Phật. Niên hiệu Thiên Hy thứ tư, Phò mã Lý Tuân Học DÂNG sớ tâu trình về cao hạnh của ngài, vua sắc phong cho hiệu là Pháp Trí đại sư, dạy nên trụ thế để hoằng dương chánh giác.
Đại sư nghĩ chư Tổ đời trước, khi xiển dương Tịnh độ, phần nhiều nói về sự tướng, ít chỉ dạy quán môn, nên duy tạm ứng thời cơ, chưa tỏ cùng tột lý viên đốn. Nhân đó, ngài soạn ra bộ Diệu Tông Sao gồm vài muôn lời, giải nói cùng cực lý u ẩn nhiệm mầu của QUÁN KINH, theo tông chỉ Thiên Thai giáo quán.
Đến năm Thiên Thánh, đại sư dựng ngôi Nhật Quán Âm, thường đến đó quán tưởng để cầu sanh Tây phương.
Về sau, khi khóa giảng kinh Duy Ma Cật hoàn mãn, ngài quyết biệt đại chúng, giao giảng tòa lại cho hàng cao đệ là Tổ Thiều, làm thi tạ duyên hẹn kỳ quy tịch. Năm sau, vào đầu niên hiệu Đạo Nguyên, ngày mùng tám tháng mười, đại sư nhiễm bịnh, khước từ thuốc thang, họp chúng lại nói lược về pháp yếu.
Kế đó ngài dạy thỉnh tượng Tây phương TAM THÁNH đến đảnh lễ, rồi đốt hương quỳ chúc nguyện với Đại Bồ Tát rằng:
“Con xét thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, ngàn trước không từ đâu đến, muôn sau cũng chẳng về đâu, cùng mười phương chư Phật, đồng trụ nơi thật tế. Nguyện xin cùng Phật và Đại Thế Chí Bồ Tát, chứng minh một nén hương của con, trước khi con về Cực Lạc!”
Đến chiều tối, đại sư sửa oai nghi ngồi nghiêm hướng về Tây. Chúng hỏi: “Tôn đức sẽ sanh nơi nào?” Đáp: “THƯỜNG TỊCH QUANG tịnh độ!” Rồi im lặng thoát hóa, thọ 69 tuổi. Lúc ấy nhiều người thấy ngôi sao to rơi xuống đỉnh Linh Thứu Phong, ánh hồng quang rự rỡ.
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HT THÍCH THIỀN-TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN-TU NGẪU VỊNH.
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GÍO LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
TỰ-CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.
“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày 12-8-1965
Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Từ Chiếu đại sư nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi là:
1- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
Bốn cửa ải là:
1- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.
2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.
3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình."
Đại sư nêu ra thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.
1. Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít: - Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật." Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư? Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?
2. Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt: - Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời. Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả. Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.
Lại Kinh Na Tiên nói: "Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc." Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.
3. Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước: - Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại. Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.
* Phá chung bốn cửa ải: - nhân bịnh khổ hủy báng Phật - tham sống sát sanh cúng tế - cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.
Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.
Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?
Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được, bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc lâm chung.
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Ý Nghĩa Và Các Yếu Ðiểm Về Nhân Quả
Nhân-quả là gì? Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả, nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra thế ấy. Người xưa đã bảo: “Muốn làm việc gì, trước phải bình tĩnh nghĩ đến kết quả về sau của nó”. Nếu mỗi Phật-tử biết lấy câu nầy làm điều tâm niệm, tất sẽ tránh được nhiều lỗi lầm thất bại trên đường đạo cũng như đường đời.
Nói theo lối khác, Nhân là hại giống, Quả luận với tánh cách rộng hơn, là hoa trái. Gieo trồng hạt giống thuộc hoa trái nào, tất sẽ được hoa trái ấy. Một vị thiền-sư cũng khuyên dạy:
“Xem hết kinh Di-Ðà.
Tụng xong chú Ðại-Bi.
Trồng dưa thì được dưa.
Trồng đậu lại được đậu.
Kinh chú vẫn quý lành.
Kết oán làm sao cứu?
Soi lại lòng bản lai.
Người tạo, người phải chịu.
Mình làm mình thọ quả”.
Mấy lời trên đây không phải phủ nhận oai lực của kinh chú. Nhưng chủ ý của thiền-sư là để nhắc nhở cho những người: một phương diện thì ăn chay tụng kinh trì chú, phương diện khác lại sát sanh gian xảo lường gạt; hay chỉ biết làm lành, cúng dường, bố thí bên ngoài, nhưng không biết dứt trừ tâm niệm tham lam, ích kỷ, tật đố, si mê, độc ác bên trong. Một đàng tu thiện, một đàng tạo ác như thế, nghiệp thì dễ tạo, phước lại khó tu, lấy công trừ tội sợ e không rồi, làm sao tiêu giải oan kết cho được? Những kẻ gây hạnh nghiệp như thế, rồi trở lại trách Phật, Bồ-Tát sao không cứu, trách kinh chú sao không linh nghiệm, chẳng hóa ra là sai lầm lắm ư?
Nhân tiện lại xin bàn thêm một việc, trong giới Phật-tử có hai hạng người: Một hạng thuần tín ngưỡng, chỉ cực đoan nương tựa nơi tha-lực, tức là cầu sự giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát, không kiểm điểm sửa đổi tâm hạnh của mình. Một hạng duy y cứ nơi tự-lực, cho rằng mình làm lành sẽ được kết quả lành, không cần sức giúp đỡ của chư Phật, Bồ-Tát, nghĩa là không ỷ lại nơi tha-lực. Cả hai quan niệm đó đều sai lầm. Về hạng trước, tuy chư Phật, Bồ-Tát có bi tâm, bản nguyện cứu độ chúng-sanh; nhưng ít nữa hành giả phải tự-lực cố gắng một phần nào, sự giúp đỡ ấy mới có công hiệu, nếu chẳng thế thì các hiền-thánh cũng đành không phương cứu trợ. Ví như một sinh viên thường siêng năng cố gắng chăm học, thầy bạn mới có thể chỉ bảo giúp đỡ thêm được; nếu mãi biếng nhác lêu lổng, thì cha mẹ, sư hữu cũng vô kế khả thi. Cho nên Tịnh-độ-tông và Mật-tông tuy thuộc về Tha-lực pháp-môn, nhưng muốn đạt được kết quả, hành giả cần phải cố gắng nhiều trên phương diện tự-lực. Về hạng sau, tuy tự-lực của mình là cần thiết, nhưng cũng cần có tha-lực hộ trì mới mau đạt được kết quả. Ví như một học sinh tuy siêng năng chăm chỉ, nhưng nếu được thầy hay bạn tốt thường giúp đỡ, thì sự học sẽ tăng tiến biết bao nhiêu! Vì thế, nên Thiền-tông tuy chú trọng về tự-lực, nhưng vì sợ hành giả khó giữ tâm trước cảnh Ngũ-ấm-ma, cho đến bậc phá trừ Tưởng-ấm chứng quả A-na-hàm, trong một giây phút sơ hở còn có thể bị thiên-ma làm cho sa đọa, nên Đức Phật ân cần khuyên phải trì chú Lăng-Nghiêm để nhờ sự hộ trì của tha-lực. Lại vì e bậc A-la-hán ở yên nơi cảnh hóa thành mà quên đến miền bảo sở, chỉ lo tự-độ mà chán việc lợi-tha, Ðức Thế-Tôn mới khuyến tấn, quở là giống khô, mộng héo. Cho đến bậc Bồ-Tát khi chứng lên ngôi Bất-động-địa, thấy thế-giới mười phương như huyễn, lặng lẽ tợ không hoa, thường sanh quan niệm an trụ nơi tịch tĩnh. Ðức Như-Lai e hành giả Đại-thừa say chìm trong cảnh đó, nên hiện thân khuyến tấn nhắc cho nhớ lại bản nguyện độ sanh, để đương nhơn tiến lên cực quả. Vậy Thiền-tông đâu phải không cần đến tha-lực? Cho nên gọi đạo Phật là tôn-giáo hay phi-tôn-giáo, thần-quyền hay phi-thần-quyền, đều không đúng. Phật-giáo là Phật-giáo, là toàn thể pháp-giới, gồm đủ mọi mặt. Quảng-Nghiêm đại-sư, một vị thiền-đức Việt-Nam, khi thị tịch có câu: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí. Hưu hướng Như-Lai hành xứ hành” (Tung trời là chí tài trai đó. Hà tất theo đuôi Phật mới lành!) Hai câu nầy chẳng qua là để nung thêm ý chí tự cường của người tu mà thôi. Hành giả đừng nên hiểu lầm, vội bác sự hướng dẫn của chư Phật, Tổ, rồi sanh tâm tự cao mà đắc tội, nhất là đối với bậc trung, hạ căn.
Sở dĩ có đoạn trên đây, là bút giả muốn khuyên nhắc sự sai lầm của những hành nhơn duy biết ỷ lại vào tha-lực mà quên việc nhân-quả tiến tu của mình. Và một hạng người cầu cao, chỉ y cứ nơi nhân-quả của tự-lực mà khinh thường sự kiện hữu ích rất cần thiết của tha-lực.
Trở lại phần chính của bài nầy, về phương diện nghiệp Nhân, trong kiếp sống, loài hữu-tình khi gây nhân có ba điều khái yếu: Phước-nghiệp, Phi-phước-nghiệp và Bất-động-nghiệp. Phước-nghiệp là những nhân lành như kính thờ Tam-bảo, bố thí, phóng sanh... Phi-phước-nghiệp là những nhân ác, như khinh báng Tam-bảo, bất hiếu với song thân, cùng những điều giết, trộm, dâm, vọng... Bất-động-nghiệp là những nhân thiền-định, như thế-gian-thiền, ngoại-đạo-thiền, xuất-thế-gian-thiền...
Ba nghiệp nhân trên phát sanh từ thân, ngữ, ý. Nhân lành của thân là giữ những giới không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, đoan chính trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, mắt không đắm sắc, tai không nhiễm thanh... Nhân lành của ngữ là không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói thô ác, không nói vô ích, không nói lời hí hước, không khen mình chê người, thường dẫn chuyện nhân-quả với tánh cách nêu gương để khuyên nhắc kẻ khác. Nhân lành của ý là không tham lam bỏn sẻn, tật đố, không giận dữ hờn oán sâu độc, không si mê tà kiến. Nếu thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều thiện, gọi là ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác. Tóm tắt, về phần “Nhân”, nơi phát sanh không ngoài thân, ngữ, ý, và chỗ tạo tác không ngoài Phước, Phi-phước cùng Bất-động-nghiệp.
Theo lời Phật dạy, trong ba nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Ða ngôn đa quá”, nghĩa là “nhiều lời tất nhiều lỗi”. Vì thế người tu nên ít nói, và khi thốt ra lời gì phải dè dặt suy nghĩ kỹ. Bởi khi nói nhiều, ta không thể kiểm soát hết lời nói của mình, như thế làm sao cho khỏi điều lầm lỗi; đôi khi gây sự phiền muộn cho kẻ khác mà ta không hay. Thuở xưa, ngài Mục-Kiền-Liên ngồi thiền định trong rừng, thấy một vị thần, thân thể đoan nghiêm phát ánh quang minh, nhưng nơi miệng lại tuôn ra máu mủ, giòi tửa, bay mùi hôi khó chịu. Sáng ra, ngài đem việc ấy bạch Phật. Ðức Thế-Tôn bảo: “Vị thần đó, tiền thân là một Tỷ-khưu, bởi giữ thân nghiệp thanh tịnh, nên sắc tướng đoan nghiêm có ánh quang minh; nhưng vì không khéo gìn khẩu nghiệp, thường buông lời thô lỗ, khen mình chê mắng người, nên nơi miệng mới có những ác tướng như thế”.
Nếu trong ba nghiệp, khẩu nghiệp đã dễ tạo, thì ý nghiệp lại có năng dụng mạnh hơn cả. Phàm-phu chỉ có thể kiểm soát tâm niệm thô của mình, song không thể kiểm soát tâm niệm tế. Ngài Di-Lặc Bồ-Tát khi nhập định, dùng trí huệ cực thanh tịnh sáng suốt, thấy mỗi chúng-sanh trong một sát-na có đến ba mươi sáu muôn ức niệm vi tế, mỗi niệm biến mỗi hình, niệm lành biến tướng lành, niệm dữ biến tướng dữ. Ðiều nầy nhắc cho ta nhớ, người tu không những giữ gìn nhân-quả nơi thân, khẩu, mà còn phải dè dặt nhân-quả trong mỗi tâm niệm. Nếu thờ ơ để cho tâm xấu thường nổi lên, khi dồn chứa lâu ngày, nó có đủ năng lực sai sử ta làm việc quấy, và chịu thân ác thú trong tương lai.
Một Phật-tử Trung-Hoa, ông Trần-Hải-Lượng, có người bạn tên Hoàng-Ðồng-Sanh. Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người. Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng. Người giàu, có ánh sáng sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu, có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu lục. Ai có điện quang màu đen thì một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người thay đổi không lường. Ðại khái, người tâm lành ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp; bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế. Cho nên khi ta khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ-thần biết; còn những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong bàn tay, hay nhìn bóng hiện trong gương sáng. Mình biết, thì lương tri tự khiển trách làm cho hổ thẹn hối hận không yên. Quỷ-thần biết, thì phẫn nộ quở phạt. Chư Phật, Bồ-Tát khi biết dù xót thương không làm tổn hại, song kẻ gây nhân tất phải chịu quả, chẳng thế nào tránh khỏi. Từ hành vi đến tâm niệm của ta, sự phản ứng của luật nhân-quả mỗi mỗi đều rất công minh. Cho nên tiên hiền đã bảo: “Quả báo của việc lành dữ như bóng theo hình. Khi khởi một niệm lành, tuy phước chưa đến mà thiện thần đã đến. Lúc sanh một niệm dữ, tuy họa chưa tới mà ác quỷ đã theo”. Mấy lời nầy rất phù hợp với lý nhân-quả của đạo Phật.
Như trên đã nói khái quát về phần Nhân, kế lại xin bàn tổng quát về phần Quả. Quả báo tuy nhiều, song có thể tóm tắt trong mười hai điểm:
1. Hiện-báo: Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện-báo còn gọi là Hoa-báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông. Tục ngữ có câu: “Ðời xưa trả báo thì chầy. Ðời nay trả báo một giây nhãn tiền”. Hai câu nầy chỉ cho tánh cách của Hiện-báo hay Hoa-báo.
2. Sanh-báo: Sanh-báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu, ví như trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái. Trong kinh có câu: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”. Hai câu nầy có thể chỉ cho ảnh hưởng của Sanh-báo.
3. Hậu-báo: Ðây là nói sự gây nhân trong đời nầy, đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu-báo có tánh cách lâu hơn, ví như trồng những loại cây trong năm nay, đến năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả. Thuở xưa, khi Phật còn ở đời, có ông Thi-Lợi-Bật-Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất-gia. Các vị Trưởng-lão như Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, nhập định quán sát trong vòng 84000 kiếp về trước thấy ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như-Lai đi khất thực trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng-lão hỏi duyên cớ. Ðức Thế-Tôn đáp: “Thi-Lợi-Bật-Ðề trước 84.000 kiếp, tiền thân là lão tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu “Mô Phật”. Do thiện căn ấy đến nay mới gặp ta, và sẽ được đắc độ. Vì nhân lành kiếp trước của người nầy quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết được”. Trong kinh có bài kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp. Nghiệp đã tạo không mất. Khi nhân duyên gặp nhau, lại tự chịu quả báo”. Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho trường hợp Hậu-báo.
4. Ðịnh-báo: Ðịnh-báo là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười. Ví như cái nhà hư hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được; nếu kèo cột tường nóc đều hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác. Và như bịnh ung thư trong thời kỳ nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng duy có phương chờ đến mãn phần. Cổ ngữ có câu: “Dược y bất tử bịnh. Tửu bất giải chân sầu”. (Thuốc chỉ trị những bịnh không chết. Rượu không thể giải mối buồn hiện thật). Mấy câu nầy có thể tượng trưng phần nào cho sự việc trên.
Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc làm được, ba việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”. Các điều ấy là: chư Phật có thể không tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp; có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng-sanh vô duyên; có thể độ vô lượng chúng-sanh, song không thể độ hết chúng-sanh giới. Bởi thế, sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng-sanh không tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.
5. Bất-định-báo: Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Và như kẻ kiếp trước kém nhân lành, nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét lẽ nhân-quả-tội-phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang. Ví như trong đời, người tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có tội nhưng gắng lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi tất sẽ được tấn chức thăng quan.
Nghiệp quả của chúng-sanh phần nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để chuyển nghiệp lực, thì cảnh Thiên-cung, Phật-quốc nào phải không nẻo tiến lên. “Bụi hồng có lối về hương quốc. Cửa tội không tâm mở dạ đài”, chính là ý nầy vậy.
6. Cộng-báo: Cộng-báo là quả báo chung. Như thuở Ðức Thế-Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà Tỳ-Xá-Ly đều bị vua Ba-Tư-Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường như đó là hàm oan. Song thật ra trong tiền kiếp vua Ba-Tư-Nặc là con trâu, ba mươi hai người kia đều là kẻ trộm. Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết, quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin, nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát hại để ăn thịt. Lúc ấy lại có một bà lão tán thành giúp cho phương tiện nấu nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của cận sự nữ Tỳ-Xá-Ly. Bà Tỳ-Xá-Ly và ba mươi hai người con vì đồng gây cộng-nghiệp, nên ba mươi hai đứa con bị giết; còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỷ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây. Ðiều nầy do Đức Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải thích.
Lại nữa, trong thời kỳ chiến tranh nầy, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn, sự kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly. Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ thuộc Cộng-báo, do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy hỷ sự giết của nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.
7. Biệt-báo: Ðây cũng gọi Bất-cộng-báo, là quả báo riêng của mỗi cá loại trong loài người hay loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có loại chim quý đẹp như bạch hạt, anh võ, trĩ, thanh tước, phượng hoàng; có loại chim thường như quốc, cò, sẻ, én; và loại xấu như chim heo, chim ụt. Lại cũng đồng là loài người, mà có kẻ xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối, người thông minh. Hoặc như trong cảnh khói lửa tang tóc lan tràn, mà có người vẫn sống đoàn tụ an vui, hầu như không biết chiến tranh là gì cả. Ðó là những trường hợp thuộc về Biệt-báo.
8. Cận-tử-báo: Cận-tử-báo là quả báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là “già hay sanh tật”.
Thuở bút giả còn ở chùa Linh-Thứu, tại xã Thạnh-Phú, tỉnh Ðịnh-Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông nầy ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm giường nằm khoanh một góc, lâu lâu lại tru lên như chó. Lúc ấy có người đồng bạn là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: “Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!” Nói chưa xong, thì ông thình lình nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ làng tránh khỏi. Ðây là một việc tượng trưng cho Cận-tử-báo thuộc về nghiệp ác.
9. Thục-vị-thục-báo: Ðiều nầy là trạng thái của nghiệp báo lúc chưa thuần thục và đã thuần thục. Tiên đức nói: “Người mang nghiệp ví như người mắc nợ, mối nào mạnh thì nó kéo lôi trước”. Khi xưa, một hôm Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Có người trọn đời làm lành mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi nghiệp lành đời nầy chưa chín muồi, song nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng khi chết sanh lên Thiên-cung, bởi nghiệp ác đời nầy chưa thuần thục mà nghiệp lành kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc nhân-quả rất phức tạp, tùy theo thế lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau. Cho nên các đệ-tử của ta chớ nên thờ ơ, phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu, có kẻ tuy đời nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến thời kỳ thuần thục!”
Bởi chưa hiểu rõ lý trên, nhiều vị thấy người làm lành mà chết xấu, kẻ hung dữ lại chết tốt, vội phê bình cho rằng không có việc nhân-quả-tội-phước, chẳng cũng là sai lầm lắm ư?
10. Chuyển-báo: Chuyển-báo là những biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương nhơn. Biến trạng nầy là sự dồn dập để chuyển đổi những quả báo sắp đến. Như có người làm đủ những điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang. Trong đây có hai nguyên nhân: Một là do túc phước của họ quá nhiều, tuy có phần tổn giảm bởi làm ác, nhưng dư phước hãy còn. Hai là do thế lực của nghiệp ác quá mạnh, khiến cho bao nhiêu phước đời nầy và đời trước đều phát hiện cho kẻ ấy hưởng, để rồi sẽ chịu quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự kiện Chuyển-báo nơi đây, chính thuộc về trường hợp thứ hai nầy. Nói theo các cụ bình dân ta, đây gọi là trạng thái “dồn phước”. Lại có những vị chí tâm tu hành, nhưng lại thường gặp những việc thất bại, đau yếu, tai nạn, mang tiếng thị phi. Theo tiên đức, đó là do sức tu thiện, khiến cho chuyển quả báo nặng ác đạo ở đời sau, thành ra quả báo nhẹ trong hiện tại, để kẻ ấy khi mạng chung sẽ hưởng phước nhơn thiên, hay sanh về Phật-quốc. Và đây gọi là trạng thái dồn nghiệp.
Nhiều Phật-tử không hiểu lẽ nầy, khi gắng tu mà gặp việc không may, vội sanh tâm sợ sự niệm Phật tụng kinh, hoặc thối chí bảo: càng tu nhiều càng có lắm việc phiền phức, rồi lần lần đi đến sự giải đãi, xin đem một thí dụ để trần thích: như người có bịnh phong hay ban, uống thuốc vào chất độc bị giải tán, làm cho nước tiểu vàng hoặc cả mình nổi mẩn đỏ, đó là trạng thái bịnh sắp lành. Việc ấy nên đáng mừng hay là lo sợ? Kẻ tu hành cũng thế, do công đức tụng kinh niệm Phật, khiến cho nghiệp chướng phát hiện để tiêu trừ. Nếu có chút ảnh hưởng khổ báo, trong mười phần ta chỉ còn chịu đôi ba phần, cho nên hành giả đừng lấy việc đó làm nản chí. Và điều nầy, trong kinh Kim-Cang, Đức Phật cũng đã bảo: “Tu-Bồ-Ðề! Nếu Thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì đọc tụng kinh nầy mà bị người khinh rẻ, nên biết kẻ ấy đời trước tội chướng rất nhiều, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Do sức tụng kinh, khiến đời nay bị người chê bai, nên tội chướng đời trước được tiêu diệt, kẻ đó sẽ đắc quả A-Nậu-Đa-La-Tam-Miệu-Tam-Bồ-Ðề”.
Trong Tịnh-Ðộ-Thánh-Hiền-Lục có thuật chuyện ông Ngô-Mao tu hành chân chánh, lúc sắp chết bị giặc đâm bảy thương. Khi người anh đến, ông bỗng tỉnh lại bảo: “Ðời trước tôi tạo nhiều nghiệp ác, đáng lẽ phải còn đầu thai làm heo bảy kiếp nữa. Nhưng nhờ đời nầy tôi biết ăn chay niệm Phật, nên phải chịu bảy vết thương để trả bảy kiếp làm heo ấy. Hiện thời tôi sắp sanh về Tịnh-độ”. Cứ theo việc ông Ngô-Mao, kẻ không biết cho là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong bảy kiếp làm heo, để rồi được sanh về Cực-Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu phải luống uổng, và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn! Nhưng tu hành không phải mỗi người đều bị chuyển-báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp trước thì càng tu càng được an vui. Hành giả đừng in trí theo một phương diện trên mà sanh lòng e ngại.
11. Thế-gian-báo: Ðây là những quả báo khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô-sắc. Nguyên nhân chánh của sự lưu trệ trong tam giới, là vì khi gây nhân chúng-sanh còn chấp ngã. Chẳng những thế gian và ngoại-đạo mà các vị tu theo chánh giáo, nếu chưa dứt hết tâm chấp ngã, còn tham nhiễm lục trần, cũng vẫn còn ở trong vòng luân-hồi sáu nẻo. Tuy nhiên, những sở hành theo Phật-pháp đều gây nhân duyên đắc độ về sau, nhưng kiếp tương lai trong khi tu, điểm chánh yếu của sự giải thoát vẫn là điều kiện dứt ngã chấp. Trong truyện ký nhà Phật có chép việc một ni-cô tụng kinh Pháp-Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm thanh sắc, nên kiếp sau chuyển làm nàng kỹ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng thường bay ra mùi thơm hoa sen. Tại Việt-Nam, đời nhà Lê, một vị sư tu Tịnh-độ ở chùa Quang-Minh, bởi tâm lợi danh chưa sạch, nên kiếp sau chuyển sanh làm vua Khang-Hy bên Trung-Hoa. Khi được biết tiền nhân, nhà vua viết mấy bài thi hoài cảm, trong ấy có hai câu: “Ngã bản Tây-phương nhất Phật-tử. Vân hà lạc tại đế-vương-gia?” (Ta vẫn là con của Phật A-Di-Ðà ở Tây-phương. Tại sao nay lại lạc vào giòng vương thất?)
Ðời Tống bên Trung-Hoa, Giới-Diễn và Quang-Huệ đại-sư đồng tu thiền, song Giới-Diễn vì còn chút tâm niệm luyến sắc, nên kiếp sau đầu thai làm nhà văn hào lỗi lạc, đa tài mà cũng đa tình, là Tô-Ðông-Pha. Sau khi được ngài Quang-Huệ chuyển kiếp làm Phật-Ấn thiền-sư để hóa độ Tô-Ðông-Pha trở lại đường tu; có lẽ nhớ biết những kiếp về trước, nên lúc lớn tuổi, trong cuộc tái du thăm viếng chùa Kim-Sơn, ông đã viết mấy câu thi:
Kim-Sơn chùa núi gần mây nước
Tóc bạc Ðông-Pha lại đến đây.
Tiền kiếp Ðức-Vân, nay chính tớ
Mơ màng còn nhớ Diệu-Cao-đài!
12. Xuất-thế-gian-báo: Thế-gian-báo là quả báo thuộc lục-phàm. Trái lại, xuất-thế-gian-báo là quả báo của tứ-thánh: Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát và Phật. Quả báo tứ-thánh do bởi khi tu lìa ngã-chấp mà được thành tựu. Trong hạnh vô-ngã nầy, hàng Nhị-thừa hãy còn hẹp, song Bồ-Tát thừa thì rất rộng rãi nhiệm mầu. Bồ-Tát chẳng những tu tam-vô-lậu-học của pháp xuất-thế-gian, mà còn làm tất cả việc từ thiện của thế gian. Tâm của Bồ-Tát không thấy có sở đắc sở chứng; không có tướng ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ giả; tuy độ vô lượng hữu-tình nhưng không thấy mình là người hóa độ, chúng-sanh là kẻ được độ; tuy quanh mình thị hiện vô biên quyến thuộc, nhưng lòng hằng vắng lặng không thấy có quyến thuộc; tuy tu vô lượng phước đức, nhưng không thấy mình có phước đức. Ðây là hạnh vô tướng. Người biết thực hành hạnh vô tướng, dù là làm việc thiện thế gian, song đều thành kết quả giải thoát. Bằng trái lại, tuy tu thánh-đạo, cũng hóa ra phước báo thế gian. Về hạnh vô tướng nầy, trong kinh Kim-Cang, có đoạn Đức Phật dạy: “Nầy Tu-Bồ-Ðề! Như có vị Bồ-Tát dùng số lượng thất bảo đầy cả hằng-hà-sa thế-giới để bố thí. Nếu lại có người biết tất cả pháp đều vô ngã, được thành vô sanh nhẫn, thì công đức của vị Bồ-Tát sau nầy hơn bậc Bồ-Tát trước kia. Tại sao thế, Tu-Bồ-Ðề? Bởi thật ra, chư Bồ-Tát đều không thọ phước đức”. Tu-Bồ-Ðề thưa: “Bạch Thế-Tôn! Sao gọi là Bồ-Tát không thọ phước đức?” - Nầy Tu-Bồ-Ðề! Vì Bồ-Tát tuy làm những việc phước đức, song chẳng tham trước, nên ta nói không thọ phước đức!”
Thông thường hàng Phật-tử tại-gia khi mới quy-y, duy thích cúng dường chùa mình, phụng sự thầy của mình, hay chỉ làm những Phật-sự mà họ cho là có công đức hơn việc thế gian. Nhưng nếu họ hiểu rộng hơn, vừa dùng tâm bình đẳng phụng sự Tam-bảo, vừa làm các việc từ thiện ở đời, như giúp đỡ kẻ nghèo khổ đau yếu, chu cấp cho hàng quả phụ cô nhi, rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tịnh-độ cùng đạo Vô-thượng-bồ-đề, thì tất cả việc làm lành đều đi đến kết quả giải thoát cả.
Tóm lại, sự lý nhân-quả thật vô lượng, chuyển biến chập chồng, có thể gọi là khó bàn khó nghĩ. Nhưng về Nhân không ngoài sự hơn kém của nghiệp thân, ngữ, ý qua ba hạnh Phước, Phi-phước và Bất-động. Về Quả lại tổng quát trong mười hai điều trên. Nếu nắm được mấy điểm chánh yếu như đã kể mà suy rộng ra, về vấn đề nầy, người học Phật có thể hiểu quán xuyến tất cả.
Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
CHỨNG ĐẠO CA
Thiền sư Huyền Giác
Tu-Bồ-Đề! Môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, đức Như-Lai nói đó chẳng phải Nhẫn-nhục Ba-la-mật, mà tạm gọi là Nhẫn-nhục Ba-la-mật.
Bởi vì sao? Nầy Tu-Bồ-Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca-Lợi chặt đứt thân thể. Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng-sanh, không có tướng thọ-giả.
Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời lẽ ra Ta khởi lòng hờn-giận.
ĐỨC PHẬT NHIÊN ĐĂNG THỌ KÝ
Nầy Tu-Bồ-Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? – Ở nơi chỗ đức Phật Nhiên-Đăng thì Như Lai có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác chăng?"
"Bạch đức Thế-Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa-lý của lời Phật dạy, thời ở nơi đức Phật Nhiên-Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác cả."
Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu-Bồ-Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như-Lai đặng Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Nầy Tu-Bồ-Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như-Lai được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, thời đức Phật Nhiên-Đăng bèn chẳng thọ-ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni."
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
VUA CA LỢI và TIÊN NHẪN NHỤC
(Kinh Pháp Hoa Lược Giảng
Hòa Thượng Tuyên Hóa)
Vua Ca Lợi này là ai? Chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như.
Vào thời quá khứ, có một hôm vua Ca Lợi dẫn theo một nhóm cung nữ lên núi đi săn—vây bắt một số động vật như hoẵng, nai, hươu. Vào trong núi, số cung nữ này vốn từ xưa đến nay toàn ở trong thâm cung giống như ở tù vậy, không hề được ra ngoài; lần này được sổ lồng, có thể nhìn ngắm được trời mây. Ố! Nhìn quan cảnh núi rừng sao mà thoáng đãng, có núi, có nước, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, nước suối nhẹ nhàng êm trôi; trong hoàn cảnh như thế làm cho lòng người vô cùng hoan hỷ. Phong cảnh núi rừng xinh đẹp hùng vĩ, chuyến đi này thật không thể dùng lời tả xiết, các cung nữ mải mê chạy đi thăm thú khắp nơi. Bọn họ nhìn thấy trong một hang núi có một cụ già, lớp bụi đất bám trên thân người này dày không biết bao nhiêu mà kể, tóc dài đến nổi bện thành một cục rối sù sì. Những cung nữ này khi nhìn thấy một người như thế ở phía trước đều không dám tiến lên, bọn họ cho rằng trong hang núi này có một con yêu quái; sau đó nhìn kỹ lại, ồ! Thì ra là một cụ già, một cụ già rất kỳ quái!
Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tu hạnh bồ tát đã làm một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, Ngài cũng rất ít khi gặp người khác, nên lúc bấy giờ nhìn thấy nhiều cung nữ đến thế, Ngài cũng muốn hóa độ nhóm cung nữ này, nên lên tiếng: “Ây! Các cô không nên sợ tôi! Tôi không ăn thịt các cô đâu! Tôi không biết ăn thịt người, tôi cũng là người mà.”
Các cung nữ này vừa nghe, vui mừng: Ồ! Cụ già đã nói chuyện rồi! Bèn vây quanh lại hỏi: “Cụ ngồi ở đây làm gì? Cụ ở nơi đây có cơm ăn không? Quần áo của cụ đã rách nát hết rồi! Cụ đi được không? Tại sao cụ lại ngồi mãi ở đây? … ”
Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là vị tiên Nhẫn Nhục này, bảo các cung nữ rằng: “Tôi ở đây tu đạo, chuyên tu về hạnh nhẫn nhục!” Các cung nữ liền hỏi: “Nhẫn nhục? Nhẫn nhục là cái gì?” Nghe đến chữ “nhẫn nhục” bọn họ không hiểu. Tiên nhân Nhẫn Nhục liền giải thích: “Nhẫn nhục có nghĩa là người ta có đối xử tệ với mình, mình đều không được nổi sân, xem như không hề xảy ra việc ấy.” Sau đó, Tiên nhân giảng cho các cung nữ này nghe về pháp môn “nhẫn nhục”.
Giảng thuyết một hồi, người nói cũng sẵn lòng nói, người nghe cũng sẵn lòng nghe; vì các cung nữ này từ xưa đến giờ chưa từng nghe được diệu pháp như vậy. Lần này người nghe cũng nhập tâm, người nói cũng định tâm; xung quanh có xảy ra động tĩnh gì, tất cả đều không hay biết. Giống như chúng ta hiện nay, nếu như quý vị là người thật tâm ở đây nghe kinh thì dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì, quý vị cũng không nghe thấy; còn nếu như quý vị là người không thật tâm nghe kinh thì ở ngoài phố có những khách du lịch nào, hoặc giả hiện giờ ở tại “Kim Sơn Thời Báo” giảng về nguồn gốc của Kim Sơn Thời Báo ra sao thì quý vị đều nghe biết hết. Nếu như quý vị nghe kinh bằng tất cả tấm lòng thì bên ngoài có âm thanh gì cũng đều không nghe thấy.
Vị tiên nhân Nhẫn Nhục này giảng cho các cung nữ nghe pháp môn “nhẫn nhục” khiến cho tất cả đều nhập vào định; vào lúc này vua Ca Lợi từ xa đi tới, đến thăm các cung nữ. Bình thường vua hay đùa nghịch với các cung nữ đã quen, lần này cũng vậy, Ngài đi nhè nhẹ, chầm chậm không để cho các cung nữ nhìn thấy; các cung nữ cũng đang nghe kinh một cách xuất thần, Tiên nhân Nhẫn Nhục cũng đang giảng một cách xuất thần, tất cả đều không hay biết đến những gì xảy ra xung quanh.
Vua Ca Lợi đi nhẹ nhẹ đến gần phía trước xem, Ồ! Thì ra có một cụ già! Các cung nữ của vua đều đang quây quanh cụ già nghe nói chuyện. Thế là vua liền khởi sanh tâm đố kỵ nghĩ “Các cung nữ này đều là những người nữ nhân của mình, bây giờ lại bị một cụ già như ông ấy mê hoặc, tất cả đều tỏ ra thích thú ông ấy!” Nghĩ như thế vua liền cất tiếng hỏi: “Nhà ngươi đang giảng gì vậy?” Tiên nhân Nhẫn Nhục nghe có người hỏi như thế, ngước lên nhìn, thì ra là một vị hoàng đế. Tiên nhân đáp: “Bần đạo đang giảng cho các cung nữ nghe về pháp môn 'nhẫn nhục'!”
Vua hỏi: “Nhẫn nhục? Sao gọi là “nhẫn nhục””? Nhà ngươi có thể nhẫn được không? Chỉ dựa vào tấm thân già nua này, ngươi có thể nhẫn được không? Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Bần đạo có thể nhẫn được!” Vua Ca Lợi hỏi lại: “Ngươi có thể nhẫn được à? Bây giờ ta muốn chứng thực lời nói của ngươi! Thử nghiệm xem nhà ngươi có thể nhẫn được không? Theo cách nhẫn nhục của ngươi thì dù có đau đớn gì nhà ngươi cũng có thể nhẫn được phải không?” Vị tiên trả lời: “Dạ phải!”
“Thế thì đầu tiên ta sẽ dùng kiếm báu của mình cắt cánh tay của ngươi, xem ngươi phản ứng như thế nào?” Tiên nhân trả lời: “Vâng, xin Ngài cứ thử!” Thế là, vút, vua Ca Lợi rút kiếm báu đeo bên mình ra; thanh bảo kiếm của vua có thể chẻ vàng cắt ngọc, vô cùng sắc bén, thanh kiếm báu vừa chạm vào tay Tiên nhân, cánh tay liền bị cắt lìa. Vua Ca Lợi hỏi: “Ngươi có đau không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” Vua tiếp: “Tâm ngươi có khởi lên sân hận không? Ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Ngươi thật không oán hận? Tốt! Còn lại một cánh tay, ta cũng sẽ cắt nốt! Một cánh tay, ngươi đương nhiên không oán hận, thử hai cánh tay xem!” Thế là vua chém đứt luôn cánh tay còn lại. “Ngươi có đau không?”
Tiên nhân Nhẫn Nhục đáp: “Không đau!” “Tâm ngươi có oán hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Không oán hận!” “Thế có gì chứng minh không? Ngươi nói ngươi không oán hận ta, nhất định là ngươi nói dối, khoác lát! Hừ! Há lại có đạo lý này! Ta chặt tay của ngươi, ngươi lại không oán hận ta? Trên đời này không có loại người như vậy! Ta không tin! Ta cắt thêm một cái chân của ngươi, xem ngươi có oán hận hay không? Ta vốn muốn ngươi nói lời chân thật! Ngươi lại nói dối với ta, ta không thể tha thứ cho ngươi được!” Nói xong, liền vung kiếm chém lìa một chân của Tiên nhân.
Quý vị xem! Hai tay và một chân của người ta đã bị cắt, chỉ còn lại một chân. A! Nếu là người bình thường sẽ rất đau khổ, nước mắt tuôn tràn như suối chảy; nhưng lúc này vị Tiên Nhẫn Nhục không có tâm trạng như vậy. Vua Ca Lợi lại hỏi Tiên nhân: “Bây giờ ngươi có đau không?”
Tiên nhân đáp: “Không đau! Việc này không đáng là gì!” “Ồ? Không đáng à? Tâm ngươi có hận ta không?” Tiên nhân đáp: “Bần đạo không hận Ngài!” “Sao? Thế thì tốt! Hai tay của ngươi đã không còn, chân chỉ còn lại một cái. Một chân cũng không làm được gì, không thể đi đứng, ta sẽ hoàn thành tâm hạnh nhẫn nhục không đau khổ cho ngươi bằng cách chặt đứt luôn cả chân còn lại của ngươi!” Thế là vua chém lìa luôn cả chân kia và hỏi Tiên nhân: “ Ngươi có đau không? Bây giờ hai tay và hai chân của ngươi đã không còn, ta xem ngươi còn làm thế nào được? Bây giờ ngươi có đau không? Phải nói lời chân thật! Nếu ngươi nói thật, sẽ không có việc gì; nếu nói dối, ta vẫn phải thử nghiệm tiếp!”
Tiên nhân Nhẫn Nhục trả lời: “Ồ! Bây giờ bần đạo vẫn cảm thấy không đau!” “Thế tâm ngươi có oán hận ta không?”, vua Ca Lợi hỏi. Tiên nhân vẫn từ tốn: “Bần đạo không oán hận Ngài!” Vua không tin “Ngươi ngoài miệng nói không oán ta, vì ta là một vị hoàng đế nên ngươi không dám oán, ngươi dám giận mà không dám nói, cho nên mới gắng chịu đựng đau đớn, cho nên phải nói dối mà không chịu nói thật, có phải như vậy không?” Tiên nhân Nhẫn Nhục vẫn trước sau như một: “Dạ, không phải! Nếu như bần đạo không có tâm oán hận bệ hạ thì xin cho tay chân của bần đạo được mọc dài ra; còn như bần đạo có tâm oán hận Ngài thì xin cho tay chân của bần đạo không thể trở lại như xưa.”
Tiên nhân vừa dứt lời, tay và chân quả nhiên mọc trở lại, như chưa hề bị chặt đứt. Lúc bấy giờ tất cả hộ pháp thiện thần đều phẫn nộ, từ trên không trung giáng mưa bão xuống, đánh vua Ca Lợi. Bấy giờ Tiên nhân Nhẫn Nhục xin với các vị hộ pháp thiện thần rằng: “Chư vị không nên trách phạt vua, vua chỉ thử bần đạo, giúp thành tựu đạo nghiệp cho bần đạo. Trong cùng tận những kiếp mai sau, nếu được thành Phật, trước tiên bần đạo sẽ độ cho vua cũng được thành Phật; bần đạo sẽ độ vua trước, vua sẽ được khai ngộ đầu tiên.”
Vua Ca Lợi kiếp trước nay chính là Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, kiếp trước Tôn giả đã không khách sáo đối với Phật như thế, nên sau khi thành đạo, Phật độ cho Tôn giả khai ngộ trước. Ngay cái tên “A Nhã” của Tôn giả dịch là “giải bổn tế”, hay còn gọi là “tối sơ giải”, nghĩa là được “khai ngộ đầu tiên” vậy.
50.-Ẩn tu thương nghĩ cánh Nam tông
Tịnh độ cho là pháp viễn vông
Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết
Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?
NHƯ Ý: HƯ VÂN Thiền-sư một bậc cao tăng cận đại ở Trung HOA, khi sang Viếng Phật Giáo ở Thái Lan, đã ngồi nhập Định luôn 9 ngày đêm liên tiếp, khiến cho Chư-tăng và Phật-tử nơi xứ này đều LẠ LÙNG RÚNG ĐỘNG.
Thế mà khi trở về nước nhà dự lễ đón mừng trong một buổi Đại hội, Ngài đã than Phật giáo gọi là Nguyên thủy thuộc cánh Nam-tông không tin các kinh như: PHÁP HOA, HOA NGHIÊM, DI ĐÀ, BÁT NHÃN, họ cho Pháp Đại-thừa là không phải của PHẬT nói lại còn đòi mở cuộc tranh luận RỐI REN, thật ra chim Én đậu ở Phan Dậu làm sao biết được dấu vết cao xa của cánh chim Hồng.
Cổ đức đã dạy:
“Dục Đắc Bất Chiêu Vô Gián Nghiệp,
Mạc Báng Như Lai Chánh Pháp Luân.”
( Muốn khỏi bị mang Vô-gián nghiệp,
Đừng khinh Chánh-pháp của Như Lai.)
Từ xưa vì sợ người tu học Phật phạm tội này, cho nên chư Bồ Tát đã thị hiện bác phá Đại thừa, rồi đọa Địa-ngục ngay trước mắt, cho quần chúng thấy để ngăn ngừa chư Tăng.
CHÍNH bên Nam Tông Tuy không tin ĐẠI THỪA, nhưng ÍT có duyên tạo tội này, vì họ ở bên xứ thuộc Tiểu thừa.
RIÊNG chư Tăng-Ni Thiện-Tín ở các nước bắc TÔNG Phật giáo cần phải DÈ DẶT, vì nơi đây pháp Đại-thừa lan rộng, để nói thêm chính Ngài Hư-vân một BẬC THAM THIỀN NGỘ ĐẠO cũng tính tịnh độ khuyên niệm Phật.
Pháp Ngữ của Thiền Sư Hư Vân
Tham thiền cùng niệm Phật
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta lại muốn đối phương sớm chết theo mình. Ðây là hiện tướng xấu xa trong nhà Phật, thật rất đau lòng! Thế tục có câu: "Gia đình hòa hợp thì muôn sự đều hưng thịnh. Gia đình ai oán thì miệng chẳng ngon."
Huynh đệ chửi mắng lẫn nhau, chẳng lẽ không bị người đời cười chê cùng khinh khi sao!
Tham thiền, niệm Phật cùng các pháp môn khác đều do kim khẩu của Phật Thích Ca thuyết ra. Ðạo vốn không hai, chỉ do căn khí nghiệp duyên của chúng sanh không đồng, nên Phật tùy theo bịnh mà cho thuốc. Vì phương tiện nên đức Phật thuyết ra nhiều pháp môn để nhiếp thọ giáo hóa quần sanh. Sau này, chư đại đức y theo giáo lý mà phân tông phái; bất quá chỉ do đối cơ mà thuyết pháp. Nếu người muốn tu trì để trở về tự tánh, thì chỉ cần bước vào một cửa là có thể nhập đạo diệu môn, vì bổn gốc vốn không phân biệt cao thấp. Các pháp xưa nay vốn hỗ tương thông đạt, viên dung vô ngại. Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền! Tham thiền đến độ năng sở cả hai đều mất, thì có khác gì với thật tướng niệm Phật! Thiền tức là Thiền trong Tịnh Ðộ. Tịnh Ðộ tức là Tịnh trong Thiền. Thiền và Tịnh Ðộ vốn tương trợ lẫn nhau. Sao thế nhân khởi tâm chấp trước một bên, thấy cửa này nhà nọ, tự tán thán mà hủy báng kẻ khác, giống như nước với lửa chẳng bao giờ tương dung, khiến phản lại thâm ý phân tông khác giáo của Phật Tổ! Lại nữa, có thể vô ý phạm trọng tội hủy báng Phật pháp. Thật có đáng thương lắm không! Hy vọng quý vị đồng nhân, không luận tu trì pháp môn nào, đều phải thể hội thâm sâu yếu chỉ vô tranh của Phật Tổ, chớ múa gậy đánh nhau trong nhà. Mọi người phải hợp lực đồng tâm, cứu độ con thuyền Bát Nhã trên sóng ba đào.
Giáo Đồ Đạo Phật
Trong thời kỳ độ sanh, Ðức Thế-Tôn một mặt tự lãnh đồ
chúng đi du hóa. Mặt khác, Ngài cho các Tăng đoàn, mỗi đoàn do một vị Tỷ-khưu
đức hạnh cầm đầu, đem đạo pháp truyền bá các nơi. Đệ-tử của Phật được chia
thành bảy chúng như sau:
1. Tỷ-khưu (Bhiksu): Phái xuất-gia nam,
từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới Cụ-túc.
2. Tỷ-khưu-ni
(Bhiksuni): Phái xuất-gia nữ, từ 20 tuổi trở lên, đã thọ giới
Cụ-túc.
3. Sa-di (Sràmanera): Phái xuất-gia nam
đã thọ 10 giới.
4. Sa-di-ni (Sràmaneri): Phái xuất-gia nữ
đã thọ 10 giới.
5. Thức-xoa-ma-na
(Siksamàna): Phái xuất-gia nữ, trong thời gian hai năm học giới
để thọ giới Cụ-túc.
6. Ưu-bà-tắc (Upàsaka): Phật-tử tại-gia
phái nam.
7. Ưu-bà-di (Upàsika): Phật-tử tại-gia
phái nữ.
Trong đây gồm có năm chúng xuất-gia, và hai chúng
tại-gia.
Giáo đoàn đạo Phật gọi là Tăng-già (Sangha). Danh từ nầy
có nghĩa: đại chúng hay hòa hợp. Tăng-già có nghĩa rộng và hẹp, nên được khu
phân thành ba loại:
1. Lý-tưởng-tăng-già: Hạng nầy không
phân biệt tại-gia hay xuất-gia, vì ai nấy đều là Phật-tử, nếu quyết tâm tu
hành, đều có thể chứng ngộ, giải thoát. Lý-tưởng-tăng-già có thể khảo sát theo
hai phương diện; về phần lượng, tất cả chúng-sanh đều bao hàm ở trong Tăng-già;
về phần chất, tất cả chúng-sanh đều có thể chứng ngộ.
2. Hiện-thật-tăng-già: Hạng nầy chỉ dành
riêng cho năm chúng xuất-gia, đúng với hình thức, danh nghĩa và sự tổ chức.
3. Hội-nghị-tăng-già: Hạng nầy căn cứ
vào nhân số trong các cuộc tập hợp mà thành lập. Nghi thức của sự tập hợp nầy
cần phải có từ bốn người trở lên mới được gọi là Tăng-già, từ ba người trở
xuống chỉ gọi là “Quần” (Gana). Hội-nghị-tăng-già tùy theo pháp sự, có thể chia
làm năm thứ: hội nghị bốn người, hội nghị năm người, hội nghị mười người, hội
nghị hai mươi người và hội nghị từ hai mươi người trở lên.
Sau khi thành đạo, trong mười hai năm đầu, Ðức Thế-Tôn
không chế ra giới luật. Nhưng qua khoảng thời gian ấy, vì đồ chúng đông nhiều,
không tránh khỏi cảnh có kẻ làm điều phi hạnh, nên Đức Phật mới chế định giới
luật để làm tiêu chuẩn sinh hoạt và tu hành cho các đệ-tử. Những giới pháp ấy
là: Ngũ-giới, Bát-quan-trai-giới, Thập-giới, Thức-xoa-giới, Cụ-túc-giới và
Bồ-Tát-giới. Hai thứ trước thuộc về giới của chúng tại-gia, ba thứ kế thuộc về
giới của chúng xuất-gia, còn Bồ-Tát-giới thông cả tại-gia và xuất-gia.
Về sự sinh hoạt, người xuất-gia còn phải nương vào
Tứ-y-pháp:
1. Y vào khất thực để sinh sống.
2. Y vào áo vải thô để che thân.
3. Y nơi cội cây để ngủ nghỉ.
4. Y vào thuốc hủ nát để chữa bịnh.
Trọng tâm của pháp Tứ-y là người xuất-gia không thiên về
cuộc sống xa hoa, mà chỉ lấy sự thanh đạm làm mãn nguyện. Tuy nhiên, tùy địa
phương, thời đại và trường hợp, người xuất-gia vẫn được thọ dụng: giảng đường,
tinh-xá, thức ăn mặc, thuốc men của đàn việt cúng dường mà không trái với
Tứ-y-pháp.
Vật sở hữu của người xuất-gia, có Cá-nhân-sở-hữu và
Tăng-già-sở-hữu. Cá-nhân-sở-hữu gồm những món đại khái như: áo cà sa, bát, đãy
lọc nước, dao cạo, ống kim chỉ, tọa cụ, khăn tay... Tăng-già-sở-hữu gồm những
thứ như: vườn cây, giảng đường, tinh-xá, giường bàn.... đều là những vật công
cộng của toàn thể chư Tăng, ai cũng có quyền sử dụng.
Công việc hằng ngày của người xuất-gia là: buổi sáng
hoặc ngồi thiền, hoặc cùng nhau đàm đạo ôn lại lời Phật dạy. Trước giờ ngọ phải
đi khất thực, rồi đem về tinh-xá hoặc nơi cội cây thọ trai đúng giữa trưa. Thọ
trai xong đi kinh hành, kế chỉ tịnh. Xế qua, hoặc lại chuyên tu hành, hoặc
giảng đạo hay nghe thuyết pháp. Buổi tối họp nhau bàn về pháp thoại rồi tham
thiền. Đây là sự sinh hoạt theo đoàn thể, còn lối sinh hoạt cá nhân tùy theo
người muốn giảng đạo hay chuyên tu lại có phần sai khác. Tóm lại, lối sống hằng
ngày của người xuất-gia là lấy sự độ mình độ người làm chủ yếu.
Bộ phận về quy luật của hàng xuất-gia là các loại giới
pháp. Ngoài ra, còn có bộ phận khác gọi là Kiền-độ (Khandaka), tức là những định
chế về cách thức thọ giới, bố-tát, an-cư, tự-tứ, gọi chung là Tăng-sự. Trong
các thứ thọ giới, riêng về giới Cụ-túc, lại có hai hạng: một là hạng do các
Trưởng-lão Tỷ-khưu trong Tăng-đoàn truyền, giới tử phải là người sáu căn đầy đủ
và 20 tuổi trở lên. Hạng nầy gọi là Phá-kiết-sử Tỷ-khưu. Hai là hạng do Phật
hứa khả, gọi là Thiện-lai Tỷ-khưu, tức là người có đủ đức tánh Tỷ-khưu, thì
không theo quy định trên.
Về nghi thức Bố-tát (Upavasatha), trong mỗi tháng có hai
kỳ: tối trời và sáng trăng (hắc nguyệt, bạch nguyệt). Kỳ hắc nguyệt, pháp sự cử
hành vào ngày cuối tháng, kỳ bạch nguyệt thì vào ngày trăng tròn. Trong những
ngày ấy, người xuất-gia vẫn tập riêng theo hai bộ Tăng, Ni ở trong một phạm vi
kiết giới. Sau khi bạch yết-ma làm lễ bố-tát, một vị tụng giới bổn, còn bao
nhiêu lặng yên ngồi nghe. Tất cả đều tự phản tỉnh, nếu ai phạm vào điều luật
nào, phải ra trước đại chúng tỏ bày, sám hối.
Theo thời tiết, ở Ấn-Độ mỗi năm có ba mùa, mỗi mùa có
bốn tháng:
1. Mùa nóng |
Tháng thứ nhất Chaitra Tháng thứ hai Vaisàkha Tháng thứ ba Jyeshtha Tháng thứ tư Àshàda |
2. Mùa mưa |
Tháng thứ năm Sràvan Tháng thứ sáu
Bhàdrapada Tháng thứ bảy À'svina Tháng thứ tám Kàrttika |
3. Mùa lạnh |
Tháng thứ chín
Màrgásirsha Tháng thứ mười Pushya Tháng thứ mười một
Màgha Tháng thứ mười hai
Phalguna |
Xứ Ấn-Độ thuộc về vùng nhiệt đới, nên mỗi năm vào mùa
mưa, cây cỏ nảy mầm, côn trùng sanh dục. Hơn nữa, đường xá thường lầy lội, các
khe suối nước lũ dâng cao có khi tràn ngập cả lối đi. Vì không muốn giẫm chết
sanh vật, và để thuận tiện cho sự tu hành, mỗi năm vào mùa nầy, Đức Phật dạy
hàng đệ-tử xuất-gia tùy theo địa phương, hội họp lại ở yên một nơi trong vòng
ba hoặc bốn tháng. Quy chế nầy gọi là Vũ-kỳ-an-cư (Varsàvasàna).
Đến ngày cuối của khóa an-cư, là ngày làm lễ Tự-tứ
(Pravàrana). Tự-tứ là trong thời gian an-cư tu tập, nếu có vị xuất-gia nào phạm
lỗi mà trong đại chúng thấy, nghe, hoặc nghi ngờ, thì các vị khác được phép tự
do cử tội. Đây cũng là một quy chế để Tăng-đoàn được thêm nghiêm chỉnh, tinh
tấn trên đường tu hành.
Về phần giáo đồ tại-gia, nếu ai có thọ Tam-quy, kẻ ấy
được chánh thức vào đoàn thể Phật-tử. Và tùy theo khả năng, nếu vị nào có thể
giữ Ngũ-giới, Bát-giới hay Bồ-Tát-giới, thì đến Tăng-đoàn mà cầu xin truyền
thọ. Bổn phận chung của hàng Phật-tử tại-gia, là giữ quy giới tu hành, và tùy
phận đem hết năng lực ủng hộ chánh-pháp. (Lược-Trích-Ấn-Độ-Phật-Giáo-Sử,
Phật-Học-Đại-Cương)
Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tông Bổn Đại Sư
(Đại Sư họ Trần, hiệu Nhất Nguyên, quê quán ở Tứ Minh, thuở bé học Nho, thông về thi lễ. Năm 15 tuổi, mục kích cái chết của anh họ là Hủ Mộc xử sĩ, ngài thường lo nghĩ buồn sợ, muốn xuất gia học đạo để thoát sự sống chết luân hồi. Sau nhân đi lễ Phật ở Trà Đình tại Hàng Châu, ngài gặp một vị Thiền sư, bèn thỉnh về nhà cúng dường đảnh lễ thưa hỏi phương pháp tu hành. Thiền sư khen ngợi, khai thị cho môn Niệm Phật. Khi ngài đã xuất gia, liền hết sức tham cứu, ngộ được chân tâm, trở lại chuyên tu Tịnh Độ. Trong niên hiệu Long Khánh, Ðại Sư viết ra bộ Qui Nguơn trực chỉ, hoằng dương Liên Tông. Ông Lý Trác Ngô thường ca ngợi hạnh đức của Ngài. Về sau, Ðại Sư ở ẩn, không rõ được ngày chung kết ra thế nào?)
Đại Sư nói: - Niệm Phật không luận là hạng người nào, nếu nghĩ mình thuở bình sanh có nhiều điều ác mà tự bỏ không chịu tu hành là sai lầm! Niệm Phật không quản là thời gian nào, nếu cho rằng mình đã già sắp chết mà không chịu tu hành, là sai lầm! Niệm Phật bất câu là phương pháp nào, nếu lập ra một quy củ nhất định, bắt mọi người đều tuân theo, khiến cho sự tu hành của họ bị chướng ngại, là sai lầm. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chẳng lựa trí, ngu, sang, hèn, nghèo, giàu, chẳng phân nam, nữ, già, trẻ, tăng, tục, chẳng luận kẻ huân tập đã lâu hay mới tu hành, đều có thể niệm Phật. Hoặc niệm lớn, niệm nhỏ, niệm ra tiếng, niệm thầm, đảnh lễ mà niệm, tham cứu mà niệm, nhiếp tâm mà niệm, quán tưởng mà niệm, lần chuỗi mà niệm, giữ hiệu Phật liên tục không dứt như dòng nước chảy mà niệm, cho đến đi niệm, đứng niệm, ngồi niệm, nằm niệm, ngàn muôn niệm đều về một niệm. Niệm theo cách nào cũng được, chỉ cần yếu là giữ cho lâu bền đừng lui sụt, và phát lòng tin quyết định, cầu sanh Tây Phương. Nếu quả hành trì được như thế, cần chi tìm bậc trí thức hỏi đường?
Cho nên tu Tịnh Độ có nhiều phương pháp, kết quả ra sao là do chỗ xu hướng của tâm nguyện. Có thể gọi: "Đi thuyền cốt bởi người cầm lái. Hiểu được đồng về cõi Tịnh Liên!"
HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC
Lời Nói Đầu
Đương thời giảm kiếp, trình độ đạo đức của nhân loại mỗi ngày một kém, trái lại tội ác mỗi ngày một thêm. Do sức nghiệp của đa số người chiêu cảm, nên khắp thế giới nổi lên những hiện tượng: động đất, bão, lụt, núi lửa, nắng hạn, thời tiết bất thường. So với mấy mươi năm về trước, những chuyện chém giết trộm cướp, dâm loàn, lường gạt giữa ngày nay, đã khiến cho người có lòng với thế đạo nhân tâm phải bàng hoàng lo sợ! Kinh Phật nói: "Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo". Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên. Ở đây, tôi muốn nói là mọi người phải dứt trừ tâm niệm xấu ác, ví như muốn được dòng nước trong, đừng để cho nguồn vẩn đục.
Trong khi xem bộ Tư Quy Tập, tôi thấy nó có lợi ích cho sự hướng thiện, đường giải thoát của người đời, nên ngoài giờ niệm Phật, lần lượt phiên dịch thành ra quyển Hương Quê Cực Lạc này. Trong đây tuy sự khuyến hóa không ngoài làm lành, niệm Phật, song đó lại chính là phương tiện khéo đưa mọi người đi sâu vào thật hạnh, âm thầm hoán cải từ người đến cảnh một cách mầu nhiệm. Vì đối với người thâm hiểu Phật pháp, thì toàn sự là lý, sự trì tức là lý trì. Trái lại, nếu chỉ chuộng lý thuyết không quan tâm đến thật hành, đó chỉ là lý thuyết suông, không đem lại kết quả.
Thuở xưa, có một vị sư đi thuyết pháp nơi nào cũng chỉ nói về quy y Tam Bảo. Có người hỏi sao không giảng pháp chi khác. Sư đáp: "Thử nghĩ có pháp nào ngoài phạm vi Tam Bảo không?". Ở nước ta, sự tu hành phổ thông của hàng Phật tử xuất gia và tại gia tóm lại cũng không ngoài: giữ quy giới, biết nhân quả, làm lành, niệm Phật. Cho đến nhiều bậc học Phật uyên thâm, kết cuộc cũng đi về điểm ấy. Vậy một câu Niệm Phật, nếu chuyên, thiết tưởng không phải là thiếu. Xem quyển này, chư vị sẽ được lãnh thọ lời vàng của Phật Tổ, chỗ kinh nghiệm về tu trì của các bậc thiện tri thức, không khác nào có thầy hay bạn tốt. Nếu thật hành y theo lời dạy trong đây, sẽ được ba điều lợi ích lớn:
1. Nhờ sức Phật hộ trì, sức công đức của câu Niệm Phật, sức tâm niệm lành của mình, riêng hành nhơn sẽ được tiêu tội chướng, thêm phước huệ, giảm trừ những nguy hiểm tai nạn trong thời mạt kiếp.
2. Cũng do ba năng lực trên, cảnh huống khổ đau chung của nhân loại có thể giảm bớt, nếu nhiều người biết ăn chay niệm Phật. Cho nên tuy tu Tây phương Tịnh Ðộ, mà thật ra đồng thời đã tu nhơn gian Tịnh Ðộ ở ngay cõi đời này.
3. Chuyên niệm Phật, hành nhơn sẽ được sanh về Cực Lạc, thoát hẳn ra nỗi khổ luân hồi, hưởng sự an vui vô cùng vô tận, lần lượt sẽ chứng đạo quả, độ chúng sanh. Vậy đây là phương pháp lợi mình lợi người một cách viên mãn chắc chắn.
Quyển này, theo bản Hán Văn, đã được tăng bổ, in ra nhiều lần. Cho nên phần tựa do ngài Ấn Quang làm năm Dân Quốc thứ 28 (1938), mà đoạn sau lại có thêm lời dạy, tiểu sử của Ngài (tịch năm 1940) và Hoằng Nhất Đại Sư (tịch năm 1942). Vậy xin độc giả thể hội, đừng lấy làm nghi.
Dịch ra quyển này, tôi cảm vì cõi đời khổ nặng, chánh giáo suy vi, nghĩ mình tội chướng chi mà sanh nhằm mạt thế, duyên phước gì mà nghe được pháp âm, nên không nỡ thọ phần lợi ích riêng, tùy sức tùy phần tuyên dương đạo giải thoát ra để tỏ lòng báo đáp bốn ân, lợi vui đồng loại trong muôn một thế thôi.
"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách
Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"
Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậỵ
Mùa an cư năm Canh Tý (1960)
Dịch giả: Liên-Du kính ghi
(VÔ NHẤT ĐẠI SƯ
HOA-NGHIÊM NGUYÊN-NHÂN LUẬN của Sa-môn TÔNG-MẬT, chùa QUÊ-PHONG.
Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nghe đầy đủ Quyển Thượng, tại đây: https://www.youtube.com/playlist?list...
SƠN CƯ BÁCH VỊNH PDF
Tông Mật – Tạng Thư Phật Học (tangthuphathoc.net)
Comments
Post a Comment