MP3 Ngày Lễ Vu Lan - Thầy Thích Thanh Từ thuyết giảng
Tại sao THẦN THÔNG không cứu được MẸ? Vì Tôn-giả Mục-Kiền-Liên không “PHÁT NGUYỆN” ở NHÂN ĐỊA.
Nếu không cứu được MẸ ở ĐỊA NGỤC tôi thề không chứng được quả vị A LA HÁN.
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, DUY TRỪ CẦU NHỮNG VIỆC BẤT THIỆN, TRỪ KẺ TÂM KHÔNG CHÍ THÀNH.
KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI
MP3 KINH VU LAN-TRƯỞNG LÃO GIÁC KIM TỤNG
NGÀY RẰM THÁNG BẢY
LỄ VU LAN
THỨ TƯ, NGÀY 30 THÁNG 8 NĂM 2023
(nhằm 15-7 Qúy Mão)
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên
Khi Tôn-giả Mục-Kiền-Liên
chứng được quả vị A-la-hán , đắc được sáu phép thần thông , Ngài liền dùng
Thiên-nhãn-thông quán sát khắp nơi để tìm kiếm cha mẹ . Ngài thấy mẹ mình đang
làm thân ngạ quỷ (quỷ đói) , chịu đói khát , khổ sở trong địa ngục ! Vì sao thân
mẫu Ngài bị đọa địa ngục ? Bởi vì lúc còn sống , bà chẳng những không kính tin
mà còn hủy báng Tam-Bảo nữa ! Thêm vào đó , bà lại thích ăn cá , và vì thế sát
sanh rất nhiều . Cho nên , sau khi chết , bà liền bị đọa vào địa ngục .
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên thấy mẹ tiều tụy , đói khát , nên mang cơm
đến dâng cho mẹ . Bà vội đỡ lấy chén và bốc ăn , nhưng vì nghiệp chướng quá
nặng nề , nên cơm chưa vào miệng đã biến thành than đỏ , khiến bà không ăn được
! Bấy giờ , mặc dù là bậc Thần-thông Đệ Nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật ,
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên không có cách nào làm cho cơm đừng biến thành than đỏ .
Vì thế , Ngài bèn cầu xin Đức Phật cứu giúp .
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã dạy Tôn-giả Mục-Kiền-Liên thiết
cúng Vu-lan-bồn để cứu mẹ Ngài . Vu-lan-bồn là
tiếng Phạn , dịch sang chữ Hán là giải thoát đảo huyền ; nghĩa
là giải cứu nạn bị treo ngược (những kẻ bị đọa xuống địa ngục làm thân ngạ quỷ
thì cũng giống như bị treo ngược lên). Đức Phật dạy Tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng
đến ngày rằm tháng 7 âm lịch , là ngày Phật hoan-hỷ và cũng là ngày tự-tứ của
chư tăng , Ngài hãy mang món ăn , thức uống đến cúng dường chư thánh-tăng khắp
mười phương , thì sẽ có thể cứu được mẹ Ngài .
Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bèn làm đúng lời Phật dạy . Qủa nhiên mẹ Ngài
liền được siêu độ , thoát khỏi thân ngạ quỷ , vãng sanh lên cõi trời . Hôm đó ,
không những chỉ riêng một mình thân mẫu ngài Mục-Kiền-Liên , mà tất cả ngạ quỷ
trong địa ngục nhờ công đức ấy cũng đều được xa lìa cảnh khổ , hưởng sự an lành
.
Sau đó , Đức Phật dạy rằng : ‘Đến ngày rằm tháng bảy mỗi năm ,
các con hãy luôn luôn hiếu thảo tưởng nhớ đến cha mẹ trong đời này và cha mẹ
trong bảy đời trước , vì họ mà bày lễ Vu-lan-bồn , cúng dường chư Phật và tăng
chúng , để báo đáp công ơn nuôi dưỡng và lòng thương yêu của (cha mẹ) họ”. Các
đấng sanh thành .
Bồ Ðề Hải
9.- Ẩn tu nhớ đến đức sanh thành
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp
Bảo châu đền đáp cũng mong manh !
NHƯ Ý : Vì thương lo cho con, mà lắm khi CHA MẸ sát sanh gian dối, Tạo nhiều nghiệp ác.
TỬ LÂN pháp sư thở bé vì đầu thường Sinh rẻ, nên bà MẸ thường hay lấy chồng trắng trứng gà hòa với thuốc thoa để chữa trị, sau ngày xuất gia thành bậc cao tăng, được Đông Nhạc thánh đế cho biết vì lý do đó mà mẫu thân của ngài bị đọa HỎA ngục, pháp sư phải lễ tháp XÁ LỢI của Phật ở chùa A DỤC VƯƠNG đến HÀNG muôn lạy để sám hối, mới độ thoát được mẹ sanh lên CÕI TRỜI, trong trường hợp đó đâu thể đem TỨ SỰ cúng dường hay BẢO CHÂU mà cứu rỗi đền đáp được.
10.- Ẩn tu nguyện trả nghĩa song đường
Hồi hướng công phu mỗi khoá thường
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.
NHƯ Ý : NGHIÊM TỪ là Nghiêm-phụ Từ-mẫu, LIÊN TRÌ đại sư bảo, ân nặng như non (Ngũ-Đảnh Tam-Sanh) chẳng đủ đền, Cha mẹ lìa Trần cấu, đạo con mấy thành tựu.
LÊN TỈNH HỌC
Chẳng vì phú quý lẫn cao sang,
Cám cảnh mẹ hiền bệnh khổ mang.
Quyết tâm lên tỉnh tìm phương thuốc,
Dứt bệnh mẫu từ dạ mới an.
Việc “thoát trần” kia nay tạm hoãn,
Nghiên tầm y dược cứu lầm than.
Chắp tay hướng đấng từ bi lễ,
Độ trì thân mẫu sớm an khang.
NGÀY XUẤT TỰ
Bốn năm nương bóng chốn am thiền,
Với mọi duyên đời đã tịch nhiên.
Kinh kệ, mõ chuông lòng thấy tịnh,
Cam lồ rửa sạch mối oan khiên.
Chắp tay kính bạch lên Hòa Thượng,
Vĩnh kiếp lòng con dạ vẫn kiên.
Xuất tự để lo tròn hiếu niệm,
Tạm biệt hồi gia cứu mẹ hiền.
Trong quyển “Nhựt Thăng di cảo” có ghi lại một sự việc như sau:
- Khoảng 10 ngày sau đó, một đêm khuya, thời gian vào khoảng giữa canh ba, lúc ấy ngài còn đang nằm mơ màng và niệm Phật thầm trong giấc ngủ bỗng nhiên nghe có tiếng ai gõ cửa.
Ngài vội vàng ngồi dậy và đi đền mở cửa ra, thì thấy có một sa di mình khoác áo nhật bình màu lam tuổi khoảng chừng 16, phong cách siêu phàm, dung nghi thoát tục, đang đứng đợi ở bên ngoài.
Ngài lật đật cúi mình đảnh lễ, bái lạy và thưa rằng:
- Bạch Đại Đức ngài từ đâu và có duyên sự chi mà đến nơi con?
Sa di đáp:
- Ta đến trao thư của tôn sư cho người. Nói đoạn, lấy trong người ra một bao thư màu trắng đưa cho ngài và nói:
- Ý của tôn sư đều ở trong đó.
Nói xong chắp tay chào rồi bước ra ngoài đi mất.
Ngài trở vào nhà, mở phong thư ra xem thì thấy bên trong có một tờ giấy vàng, ghi bài thơ sau đây:
Khá khen hiếu niệm chẳng quên lòng,
Mười chín tuổi tròn vẹn ước mong.
Phù tục lợi danh từ đấy lặng,
Sớm đáo thiền môn tách bụi hồng.
Ơn nghĩa mẹ cha đều báo bổ,
Thiên đường, Phật quốc chép ghi công.
Bệnh mẫu từ ngươi nay đã dứt,
Đò neo bến đợi kịp sang sông.
Sau khi thức dậy ngài liền ghi bài thơ ra nơi giấy, suy nghĩ nghĩa lý và biết rằng ngay từ bây giờ mình phải nên sớm lo liệu việc xuất gia chớ chẳng nên chần chờ, trễ nải.
PHÚT PHÂN LY
Giã từ cậu má con ra đi,
Ơn đức sanh thành dạ khắc ghi
Bên gối dập đầu con bái biệt,
Lạy chào cha mẹ phút phân ly.
Phân ly con biết nói lời chi,
Xuất gia, xuất giá cũng đồng đi.
Bước chân chẳng dám quay nhìn lại,
E nổi thâm tình lệ ướt mi.
BẾN ĐÒ BÌNH XUÂN GIÃ TỪ ANH NĂM
Từ nay huynh đệ cách đôi nơi,
Xin giã từ anh ở lại đời.
Phụng dưỡng huyên đường trong bóng xế,
Thay người em nhỏ chốn xa khơi.
Đã chết cuộc đời trong nẻo đạo,
Cùng bóng từ quang tỏa ánh ngời.
Bác lái đò ơi qua cho kíp,
Rước kẻ hồng trần bỏ cuộc chơi.
ĐỢI CHUYẾN ĐÒ NGANG
Nhớ xưa Bồ Tát Tất Đạt Đa,
Trốn cha, lìa vợ vượt tỳ La.
Sáu năm tu tập nhiều gian khổ,
Đạo quả tròn nên Phật Thích Ca.
Tôi cũng theo gương đức Bạc già,
Bán dạ độ hà trốn mẹ cha.
Vì sợ tử sanh cam lỗi đạo,
Nguyện đấng huyên đường chẳng xót xa.
SANG BÊN KIA SÔNG
Nương thuyền bát nhã lướt sang sông,
Bỏ cả huyên đường cả ước mong.
Song thân giờ chắc còn an giấc,
Xin hiểu cho con một tấm lòng.
Hướng chốn thiền môn chân bước đến,
Duyên trần xin tạ, việc đời không.
Đường quê mờ khuất sau ngàn sóng,
Khuất hết người quen chốn bụi hồng.
TRÊN ĐƯỜNG XUẤT GIA
Thôi chào ngươi nhé bạn đường ơi,
Trần thế nay ta bỏ cuộc chơi.
Một bước chân đi không trở lại,
Phật tự từ đây định chốn nơi.
Phai bóng người thân, phai tục lụy,
Dặm nghìn quê cũ tách xa khơi.
Đem thân nương nép tòa sen thắm,
Rực ánh hồng quang tỏa khắp trời.
HƯỚNG CHỐN AM THIỀN
Mỗi bước mỗi gần thêm cảnh tịnh,
Xa lìa tăm tối, lánh vô minh.
Trần duyên rày dứt, người quen mất,
Tạ chốn bụi hồng, đáo Ngọc Kinh.
ĐẾN LỄ CỔNG CHÙA
Sắc Tứ Linh Thứu chính là đây,
Phú quý, vinh hoa chẳng đắp xây.
Nhựt Thăng Tu sĩ từ nay quyết,
Bỏ đời an ẩn chốn am mây.
HỌ NGUYỄN, NHỰT THĂNG RÀY ĐÃ CHẾT
Từ đây tôi chẳng phải là tôi,
Mà cả trần gian cũng thế thôi.
Họ NGUYỄN, NHỰT THĂNG rày đã chết,
Sau cổng thiền môn đóng kín rồi.
Nhựt Thăng Tu sĩ
Trong mơ biết mình tên TU SĨ.
Họ TRẦN niên kỷ khoảng năm mươi.
Xuất gia từ thuở mười ba tuổi.
Nhập tự tòng sư học Kệ Kinh.
Ba mươi năm lẻ say mùi đạo,
Lỡ một ngày kia phạm sát sinh.
Công quá một đời như bọt nước,
Thức giấc lệ buồn đẫm ướt mi.
Hôm qua nhìn thấy cảnh vô thường,
Tang quyến khóc buồn dạ thấy thương.
Tu sĩ nghe lòng dâng đau xót,
Ý niệm thoát trần mãi vấn vương.
Ra trước bàn thờ thắp nén hương,
Cúng dường Phật tổ chốn Tây Phương.
Tu sĩ biết đời ai tránh khỏi,
Vùi thân huyệt lạnh cạnh bên đường!
Nghe tiếng chuông chùa bên kia sông,
Thanh âm ngân suốt mấy từng không.
Kêu người du tử lìa cơn mộng,
Hướng chốn thiền môn tách bụi hồng.
Nhớ tiếng chuông chùa bên kia sông,
Đêm ngày con trẻ ngóng cùng trông.
Thầm hỏi mẫu từ ơi có thấu.
Tu sĩ chiều nay CÓ NỖI LÒNG.
THẾ PHÁT – QUY Y THÍCH MÔN CHI TỬ
Mỹ Tho,
Vĩnh Tràng Tự – THÍCH PHẬT ẤN Hòa thượng
Kính gởi:
Sắc Tứ, Linh Thứu Tự – THÍCH THÀNH ĐẠO
Đại lão Hòa thượng pháp huynh,
Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch pháp huynh tôn giả, Người mang thư này tên NHỰT THĂNG, họ NGUYỄN sanh quán tại xã Bình Xuân, huyện Hòa Đồng – tỉnh Gò Công. Tuổi Ất Sửu (1925), cha tên Nguyễn Văn Hương, mẹ tên Trần Thị Dung – năm nay vừa đúng 20 tuổi.
Là một tục gia đệ tử của tôi pháp danh là Trí Hiền, vì muốn tránh chướng duyên ngăn cản và truy tìm của song thân cùng với gia đình trên đường xuất gia tu học cầu giải thoát, nên được tôi chấp nhận cho phép y rời Vĩnh Tràng bổn tự đến nơi pháp huynh và quý tự để xin xuống tóc xuất gia.
Ngưỡng mong pháp huynh thương xót lấy Trí Hiền và vì tôi mà mở lòng từ bi, chấp nhận làm Thế độ sư và y chỉ sư để cho y được tăng thượng thêm pháp duyên trên con đường tu học hiện tại và tương lai.
Nam mô từ mẫn cố, đại từ mẫn cố.
Bái bạch.
Trụ trì Vĩnh Tràng Tự
Hòa thượng THÍCH PHẬT ẤN
NGÀY THỌ GIỚI
Lạy này tạ hết những niềm thương,
Phụ mẫu đệ huynh khắp mọi đường.
Lạy thứ hai, tay nâng dâng trả,
Tình nhà, nợ nước, nghĩa quân vương.
Lạy thứ ba con xin kính lễ,
Ơn dầy sanh dưỡng mấy mươi sương.
Lạy thứ tư, từ nay vĩnh biệt,
Chôn đời, theo Phật chốn Đoài phương.
Từ nay tên gọi THÍCH THIỀN TÂM,
Chôn vùi dĩ vãng chốn xa xăm.
Nguyễn Nhựt Thăng kia rày khuất dạng,
Đã chết lâu rồi, tự mấy năm!
TỐNG BIỆT
NHỰT THĂNG HUYNH
Nếu chẳng chung nhau bước một đường,
Xui chi gặp gỡ khiến lòng thương.
Mấy năm mơ mối tình hương lửa,
Đơn bóng rèm thưa lạnh gió sương.
Cũng bởi em yêu người “thoát tục”,
Nên đời mang nặng khổ đơn phương.
Sầu cho mộng ước đầu dang dở,
Ôm khối tình si luống đoạn trường.
Tạ Thị Kim Loan
NHỚ CON
Đường mây bặt dấu chim hồng,
Dặm ngàn khuất dạng, còn trông chi tìm.
Hỏi mây, mây cũng lặng im,
Hỏi trăng, trăng cũng an điềm mặc nhiên.
Sân chiều trời ngả bóng nghiêng,
Nhựt thăng biết đã về miền nơi nao!
Cả kêu rằng hỡi trời cao,
Con tôi giờ đã ra sao, chốn nào?
CHỜ ĐỢI TIN CON
Con đi áo để lại nhà,
Mỗi ngày nhìn ngắm lòng già quặn đau.
Buồn trong ngõ trước vườn sau,
Nhựt Thăng giờ ở nơi nào hỡi con?
Sớm hôm lòng dạ héo hon,
Chờ mong tin nhạn mỏi mòn nhạn ơi.
Sầu này biết thuở nào vơi!
BUỒN KHÓC NHỚ CON
Đêm nay sao khiến tôi buồn quá,
Trước ngọn đèn chong có một mình.
Rỉ rả ve sầu vang tiếng gọi,
Tỉ tê giọng dế suốt đêm thanh.
Ngoài hè gió thổi nghe xào xạt,
Trong trướng không an giấc mộng lành.
Trằn trọc thâu đêm không nhắm mắt,
Biết ai mà tỏ nổi lòng mình.
Lòng mình, mình biết chỉ mình hay,
Tâm sự này bày tỏ với ai.
Lặng lẽ mà nghe lòng thổn thức,
Âm thầm chịu đựng mấy ai thay
Nhớ con dấn bước hà phương tá,
Để khổ lòng già chịu đắng cay.
Sầu nọ, nổi kia thêm chất ngất,
Khôn ngăn giọt lụy suốt đêm dài.
Đêm dài thao thức nổi sầu quanh,
Thơ thẩn, thẩn thơ dưới bức mành.
Nghĩ nhớ trẻ thơ lòng đứt đoạn,
Bao giờ gặp lại hỡi cao xanh?
Thân yếu, tuổi già thêm quạnh vắng,
Một mình sầu khổ suốt năm canh.
Con hởi vì sao đành vội sớm?
Lá mới xanh non nở tách cành!
Tách cành đành bỏ mẹ cùng cha,
Canh vắng đường khuya khổ lắm mà.
Vì sợ tử sanh con lỗi đạo?
Hướng về Phật tự lướt xông pha.
Bỏ quê, bỏ xứ, bỏ người thân,
Lìa hết thương yêu, dứt ruột rà.
Cúi lạy Phật đà xin đoái tưởng,
Độ người qua khổ hải trầm kha.
PHÚT CUỐI ĐỜI
Chín năm cách biệt đứa con yêu,
Đếm bước vườn sau có những chiều.
Ngắm áo con thơ lòng nức nở,
Lệ sầu tuôn đổ biết bao nhiêu!
Lắm khi khóc lặng trong niềm nhớ,
Gan ruột dường như bị đốt thiêu.
Con ở phương xa giờ có biết?
Phút cuối cha nghe dạ nhớ nhiều.
Nguyễn Văn Hương
NẾU CÓ NHỚ CON XIN NIỆM PHẬT
Tụ tán xưa nay lý vẫn thường,
Mất còn, tan hợp bận chi thương.
Bình tâm nghĩ lại đừng bi lụy,
Năm tháng lạnh lùng bạc tóc sương.
Nếu có nhớ con xin niệm PHẬT,
Phát lòng quy hướng chốn Tây Phương.
Nguyền cho cậu, má tâm thường nhớ,
Cực Lạc là quê chỗ náu nương.
Cũng biết từ khi vắng bóng con,
Huyên đường sao tránh khỏi thon von.
Sớm hôm tựa cửa chờ tin nhạn.
Tháng lại ngày qua chắc mỏi mòn!
Nhớ con xin niệm Di Đà Phật,
Nhờ đức từ bi đỡ héo hon.
Lỗi chẳng chung thân hầu sớm tối,
Vì chưng muốn thoát chốn lồng son.
KHEN HÒA THƯỢNG
NGƯỜI CON CÓ HIẾU
Báo-đáp sanh-thành, dưỡng-dục
ơn,
THIỀN TÂM, VÔ NHẤT mấy ai hơn.
Khuyến-dắt song-đường tâm-đạo phát.
Niệm-Phật A-Di chí chẳng sờn.
Phương-liên rước mẹ về An-dưỡng,
Một sớm chào thầy đáo cõi chơn.
Nén hương kính-lễ khen Hòa-thượng,
Đạt-đạo hiền-tăng hiếu-tử nhơn.
SÁM VU
LAN
(Quỳ
đọc)
Ðệ-tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng Bảy,
Gặp hội Vu-Lan,
Phạm-Vũ huy-hoàng,
Ðốt hương đảnh lễ
Mười-phương Tam-thế,
Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Noi gương Đức Mục-Kiền-Liên,
Nguyện làm con thảo,
Lòng càng áo-não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng-thành,
“MẸ” dày đau khổ,
Ba năm nhủ bộ,
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công “CHA”,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ,
Quyết cùng hoàng-vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo,
“ÐỆ TỬ” ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kỉnh;
Ðạo tràng thanh-tịnh,
Tăng-bảo trang-nghiêm,
Hoặc thừa TỰ TỨ.
Hoặc hiện tham-thiền,
Ðầy đủ thiện duyên,
Dủ lòng lân-mẫn,
Hộ-niệm cho:
“Bảy kiếp cha mẹ chúng
con,
Ðượm nhuần mưa Pháp,”
Còn tại thế:
“Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu-trì,”
Ðã qua đời:
“Ác-đạo xa lìa,
Chóng thành Phật-quả,”
Ngưỡng mong các Đức Như-Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia-hộ.
NAM MÔ
ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ (3 lần)
PHẬT THUYẾT
KINH VU LAN BỒN
1. TA TỪNG
NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY :
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng ĐẠO NHÃN dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.
2. Thấy như
vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương TỤ TẬP,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn TRĂM VỊ trái cây NĂM MÀU
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng
Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.
Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng TỤ HỘI về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa
Người nào có sắm ra vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dưng.
Khi thọ-dụng nên an vật-thực
Trước PHẬT TIỀN hoặc tự THÁP TRUNG:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan.
3. Mục-liên
bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỉ
Phải sắm sanh BÁ VỊ cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền
Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan
Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !
PHẬT THUYẾT
KINH VU LAN BỒN
BÁO
PHỤ MẪU ÂN CHÚ
NAM MÔ MẬT
LẬT ĐA ĐÁ BÀ DẠ TÁ HA.
(108 BIẾN)
LƯỢC SỬ TÁC GIẢ
Thiền sư Tông Mật khi chưa xuất gia họ
Hà, nguyên quán ở Quả Châu Tây Sung, gia đình giàu có, lúc nhỏ tinh thông Nho học,
đến hai mươi tuổi mới nghiên cứu kinh Phật. Ðời Ðường hiệu Nguyên Hòa năm thứ
hai (807 TL.) sắp được tiến cử đi làm quan, chợt gặp thiền sư Ðạo Viên, ngài
phát tâm xuất gia. Nơi đây, ngài được truyền tâm ấn cũng năm ấy thọ giới Cụ
Túc.
Một hôm, nhơn theo chúng thọ trai Tăng ở
nhà Phủ sứ Nhâm Quán, ngài ngồi sau chót. Kế nhận được mười hai chương kinh
Viên Giác, ngài xem chưa hết mà cảm ngộ rơi nước mắt. Về chùa, ngài đem sở ngộ
trình lên thầy. Ðạo Viên bảo:
- Ông sẽ chẳng truyền giáo viên đốn, đây
là chư Phật trao cho ông, nên du phương đừng tự ràng buộc một góc.
Ngài rơi nước mắt, vâng lệnh thầy từ tạ
ra đi, đến yết kiến thiền sư Kinh Nam Trương (người Nam Ấn). Kinh bảo:
- Người truyền giáo nên giảng dạy ở đế
đô.
Ngài lại đến yết kiến thiền sư Thần Chiếu.
Chiếu bảo:
- Người Bồ Tát, ai có thể biết được.
Ngài tìm đến Nhượng Hán. Ở đây, nhơn vị
Tăng bệnh trao cho bộ kinh Hoa Nghiêm Cú Nghĩa do đại sư Trừng Quán tuyển, ngài
chưa từng học tập, một phen xem qua là giảng được, tự mừng duyên gặp gỡ của
mình, ngài nói:
- Các thầy thuật tạo ít có cùng tột chỉ
yếu, chưa bộ nào bằng bộ này, bộ này văn chương lưu loát, nghĩa lý rõ ràng. Ta
tu Thiền thì gặp Nam tông (đốn ngộ), kinh điển thì gặp Viên Giác. Chỉ một câu
nói tâm địa khai thông, trong một quyển kinh nghĩa sáng khắp trời. Nay lại gặp
bộ tuyệt bút này biết sạch trong lòng.
Giảng xong, ngài nghĩ nên tìm đến Ðại sư
Trừng Quán. Khi ấy, trong môn đồ có Thái Cung chặt tay để cúng dường công ơn giảng
dạy. Ngài gởi thư đến Ðại sư Trừng Quán trước, đợi săn sóc Thái Cung lành mạnh,
thầy trò đồng đến Thượng Ðô. Ngài đối với Ðại sư Trừng Quán giữ lễ đệ tử, Quán
bảo:
- Người hay theo ta dạo Hoa Tạng Tỳ Lô là
ông vậy.
Ngài ở đây đức hạnh càng ngày càng cao,
những bịnh chấp tướng lần lần dứt sạch.
Ði dạo miền bắc đến núi Thanh Lương,
ngài dừng lại ở chùa Thảo Ðường, huyện Hộ. Không bao lâu, ngài lại trụ trì Lan
Nhã Khuê Phong ở núi Nam Chung.
Ðến niên hiệu Thái Hòa năm thứ hai
(828), vua thỉnh ngài về triều ban tử y (y tía) và thư hỏi pháp yếu, bá quan
trong triều đều quy kính ngài, duy tướng quốc Bùi Hưu là thân cận hơn cả. Ngài
dùng Thiền và Giáo để giáo hóa môn đồ. Về Thiền, ngài có biên tập lời nói, kệ tụng
của các thiền gia làm một bộ lấy tên là Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập và viết một
quyển cương yếu lấy tên là Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Ðô Tự. Về Giáo, ngài có
sớ giải các bộ kinh Viên Giác, Hoa Nghiêm, Niết Bàn...
Niên hiệu Hội Xương năm đầu (841 TL.)
ngày mùng sáu tháng giêng, ngài ngồi kiết già thị tịch, tại tháp viện Hưng Phước,
dáng mạo nghiêm trang, vui vẻ hơn ngày thường. Ðến bảy ngày mới để vào quan tài
và sau này thiêu được xá lợi rất nhiều. Ngài thọ sáu mươi hai tuổi, được ba
mươi bốn tuổi hạ.
Sau đây Ngài trả lời mười một câu hỏi
quan trọng:
CƯƠNG YẾU THIỀN TÔNG
1. HỎI: Thế nào là đạo? Lấy cái gì để tu? Phải do
tu mới thành hay chẳng cần dụng công?
ÐÁP: Không
ngại là đạo, biết vọng là tu, đạo tuy vốn tròn, vọng khởi phiền lụy, vọng niệm
hết sạch tức là tu thành công.
2. HỎI: Ðạo nếu nhơn tu mà thành tức là tạo tác, tạo
tác thì đồng pháp hư ngụy không thật ở thế gian, thành rồi lại hoại, sao gọi là
xuất thế?
ÐÁP: Tạo tác thì kết nghiệp gọi pháp thế gian hư
ngụy, không tác (làm) là tu hành tức pháp xuất thế chơn thật.
3. HỎI: Kia tu là đốn hay tiệm? Tiệm thì quên trước
mất sau, lấy cái gì tập hợp mà thành? Ðốn thì muôn hạnh nhiều môn, đâu thể một
thời đầy đủ?
ÐÁP: Chợt ngộ chơn lý là viên đốn, dứt vọng cần
phải tiệm tu (tu dần dần) mới hết. Viên đốn ví như trẻ con sơ sanh trong một
ngày các cơ thể đầy đủ. Tiệm tu ví như nuôi dưỡng đến thành nhân, phải nhiều
năm mới lập chí khí.
4. HỎI: Phàm tu phát tâm địa khi ngộ tâm là xong,
hay riêng có hạnh môn? Nếu riêng có hạnh môn thì sao gọi là đốn chỉ Nam tông (đốn
tu)? Nếu ngộ liền đồng chư Phật, sao không phóng quang hiện thần thông?
ÐÁP: Biết băng trên mặt hồ nguyên là nước, nhờ
ánh nắng mặt trời dần dần tan, ngộ phàm phu tức chơn, nhờ sức pháp để tu tập.
Băng tiêu thì nước trôi chảy, công phương trình tẩy rửa vọng hết thì tâm linh
thông, mới có ứng hiện phát quang. Ngoài việc tu tâm không có hạnh môn riêng.
5. HỎI: Nếu chỉ tu tâm mà được thành Phật, cớ sao
các Kinh lại nói: "Cần phải trang nghiêm Phật độ, giáo hóa chúng sanh mới
gọi thành đạo".
ÐÁP: Gương sáng thì hiện muôn ngàn hình bóng sai
khác, tâm tịnh thì ứng hiện muôn ngàn thần thông. Hình bóng ví trang nghiêm Phật
độ, thần thông ví giáo hóa chúng sanh, trang nghiêm tức phi trang nghiêm, hình
bóng là sắc mà phi sắc.
6. HỎI: Các Kinh đều nói độ thoát chúng sanh, chúng
sanh tức phi chúng sanh, tại sao lại nhọc nhằn độ thoát?
ÐÁP: Chúng sanh nếu thật độ được tức là nhọc nhằn,
đã nói "tức phi chúng sanh", sao không so sánh độ mà không độ?
7. HỎI: Các Kinh nói "Phật thường trụ" hoặc
nói "Phật diệt độ". Thường tức không diệt, diệt tức không phải thường,
như vậy là mâu thuẫn nhau.
ÐÁP: Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật thì đâu có
thật ra đời hay nhập diệt? Thấy ra đời hay nhập là tại cơ duyên. Cơ duyên ứng hợp
thì xuất hiện dưới cội Bồ đề. Cơ duyên hết thì nhập Niết bàn giữa hai cây Sa
La. Cũng như nước trong, không tâm không hình tượng, không hiện hình tượng
không phải có ngã. Bởi vì tướng ngoại chất có đến đi, không phải thân Phật. Ðâu
thể nói Như Lai có xuất nhập.
8. HỎI: Thế nào là Phật hóa sanh như chúng sanh kia
sanh? Phật đã vô sanh thì là nghĩa gì? Nếu nói tâm sanh pháp sanh, tâm diệt
pháp diệt, thì do đâu được Vô sanh pháp nhẫn?
ÐÁP: Ðã nói như hóa, hóa tức là không, không tức
là không sanh, sao lại hỏi nghĩa sanh? Sanh diệt diệt rồi thì tịch diệt là
chơn, nhận được pháp vô sanh này gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
9. HỎI: Chư Phật thành đạo thuyết pháp chỉ vì độ
chúng sanh giải thoát, chúng sanh thì có lục đạo, tại sao Phật chỉ hóa hiện ở
trong nhơn đạo? Lại Phật sắp diệt độ, trao pháp cho Tổ Ca Diếp dùng tâm truyền
tâm cho đến phương này (Trung Hoa), bảy vị Tổ mỗi đời chỉ truyền một người, đã
nói rằng đối tất cả chúng sanh coi như con một, tại sao truyền dạy không khắp?
ÐÁP: Mặt trời, mặt trăng lên cao đều soi sáng khắp
sáu phương mà người mù không thấy, chậu úp không biết, không phải mặt trời, mặt
trăng soi chẳng khắp, tại lỗi che đậy ngăn cách. Ðộ cùng không độ nghĩa giống
như vậy, không phải hạn cuộc nơi người trời bỏ các loài quỷ súc. Chỉ vì nhơn đạo
hay kiết tập truyền trao không dứt, nên biết Phật hiện trong nhơn đạo. Sắp diệt
độ Phật trao pháp cho Tổ Ca Diếp, lần luợt truyền nhau một người, chính vì nhằm
vào vị chủ Thiền tông trong một đời. Như trong nước không có hai vua, không phải
người được độ chỉ có số dường ấy.
10. HỎI: Hoà Thượng nhơn đâu phải phát tâm? Mộ pháp
gì mà xuất gia? Nay tu hành pháp gì? Ðược pháp vị gì? Chỗ tu hành đến địa vị
nào? Là trụ tâm tu tâm? Nếu trụ tâm thì ngại tu tâm, nếu tu tâm thì động niệm
không an làm sao được gọi là học đạo? Nếu tâm an nhất định thì đâu khác gì môn
đồ của định tánh (định tánh Thanh văn)? Cúi mong Ðại Ðức vận dụng đại từ bi
theo thứ lớp nói đúng lý như như.
ÐÁP: Biết tứ đại như mộng huyễn, hiểu lục trần
như không hoa, ngộ tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh là nguyên
nhơn phát tâm. Biết tâm không trụ tức là tu hành; không trụ mà "biết"
tức là pháp vị. Trụ trước nơi pháp đây là động niệm, như người vào tối thì
không thấy vật; nay không có chỗ trụ, không nhiễm không trước, như người có mắt
và có ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Thế thì đâu thể đồng môn đồ của định
tánh, đã không có chỗ trụ trước thì đâu luận xứ sở?
11. HỎI: Người ngộ lý dứt vọng thì không kết nghiệp,
sau khi mạng chung linh tánh sẽ nương vào đâu?
ÐÁP: Tất cả chúng sanh đều có tánh giác linh minh
không tịch, không khác với Phật, chỉ do từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng liễu
ngộ, vọng chấp thân là tướng của ta, cho nên sanh tình yêu ghét. Theo tình tạo
nghiệp, theo nghiệp thọ báo sanh, già, bệnh, chết luân hồi nhiều kiếp. Nhưng,
giác tánh trong thân chưa từng sanh tử. Như mộng thấy bị xua đuổi mà thân vẫn nằm
yên trên giường. Vốn tự vô sanh thì đâu có chỗ nương gá, tinh lanh không mờ mịt,
rõ ràng thường biết, không từ đâu đến cũng không đi đâu. Song, vọng chấp nhiều
đời huân tập thành tánh mừng, giận, vui, buồn, trôi chảy nhỏ nhiệm, tuy đã đốn
ngộ chơn lý mà tình này không thể dứt liền, cần phải hằng xét nét dần dần tổn
giảm. Như gió dừng thì sóng dần dần lặng. Ðâu thể tu hành một đời mà đồng lực dụng
của chư Phật, chỉ nên lấy không tịch làm thể của mình, chớ nhận sắc thân này, lấy
linh tri là thân của mình, đừng nhận vọng niệm, vọng niệm nếu khởi không nên
theo nó, tức là khi sắp mạng chung tự nhiên nghiệp không thể ràng buộc. Tuy có
thân trung ấm mà đi đâu tự do, tùy ý đến cõi người, cõi trời thọ sanh. Nếu niệm
yêu ghét đã hết sức không thọ nhận thân phần đoạn (thân còn ăn uống thô) tự hay
đổi dở thành hay, đổi thô thành diệu. Nếu phần trôi chảy nhỏ nhiệm lắng sạch tất
cả, chỉ riêng còn Viên giác Ðại trí sáng suốt, tùy cơ ứng hiện trăm ngàn ức
thân độ chúng sanh hữu duyên, gọi đó là Phật.
Ngài có làm tám câu kệ hiển bày ý nghĩa này:
Tác hữu nghĩa sự,
Thị tỉnh ngộ tâm.
Tác vô nghĩa sự,
Thị cuồng loạn tâm.
Cuồng loạn tùy tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp khiên.
Tỉnh ngộ bất do tình.
Lâm chung năng chuyển nghiệp.
Dịch:
Làm việc có nghĩa, Là tâm tỉnh ngộ.
Làm việc vô nghĩa,
Là tâm cuồng loạn.
Cuồng loạn theo tình niệm,
Lâm chung bị nghiệp lôi.
Tỉnh ngộ không theo tình,
Lâm chung hay chuyển nghiệp.
NGUỒN THIỀN GIẢNG GIẢI
Tác giả: Thiền sư Tông Mật (Khuê
Phong)
Giảng giải: Thiền sư Thích Thanh Từ
PHẬT THUYẾT VU LAN BỒN KINH SỚ
Sa-môn
Tông Mật, người Sung quốc soạn.
Bắt đầu từ sự hỗn độn,
che lấp trời đất, chung cho cả thần, người, chung với giàu nghèo, Nho, Thích
đều y cứ, chỉ là đạo hiếu. Ứng với sự thành khẩn của người con hiếu, cứu cha mẹ
khỏi khổ nguy, đáp đền ân đức cao lớn như trời, chỉ có giáo pháp Vu-lan-bồn.
Tông Mật tội khổ sớm mất
cha mẹ, thường buồn, sống trong giá lạnh, mãi ôm hận của gió cây. Trộm nghĩ
trọn đời đã bị chôn vùi, suốt đời nổi trôi, tuy mở rộng hiếu tư nhưng không
giúp ích cho thần đạo. Liền tìm tòi lời dạy của Thánh hiền, cung kính mong cầu
phương pháp cúng tế cho người đã mất, được pháp môn này, thật là hạnh
lành.
Mỗi năm vào ngày chư
tăng tự tứ, dâng bốn thứ cúng dường Tam bảo, Tông Mật cung kính hành theo, đã
trải qua nhiều năm, giảng cả lời dạy ấy, để chỉ bày những điều chưa nghe, do đó
trở về quê cũ, nương vào ngày ấy mở ra đạo tục tốt đẹp, vừa buồn vừa vui vâng
theo, khác miệng cùng lời, không phân biệt thân sơ, tâm cao như thông bách, đâu
xem thường làng xóm.
Xin hãy niệm tình mà
phát huy đạo lý quan trọng.
Đảnh lễ Đấng giáo chủ ba
cõi,
Đức Thích-ca Thế Tôn đại
hiếu,
Nhiều kiếp báo đền ân
cha mẹ,
Chứa nhóm nhân thành
Chánh giác.
Đem các loài trang sức
vĩnh viễn, nhận lời thỉnh giảng kinh này, muốn báo đáp với người ân, đều
trả được ân khôn cùng. Nay ta đã khen ngợi, nguyện các bậc Thánh thầm che chở,
mình người chỉ còn thân thích, xa lìa các khổ, thường được an vui.
Để giải thích kinh này,
trước chia làm bốn đoạn:
- Nguyên nhân khởi giáo.
- Thuộc về tạng thừa
nào.
- Xác định tông chỉ.
- Giải thích văn kinh.
Trong phần đầu lại chia
làm bốn:
Đáp lại nhân đời trước.
Đáp lời thỉnh ngày nay.
Làm sáng tỏ hiếu đạo.
Chỉ bày ruộng tốt.
I.- NGUYÊN
NHÂN KHỞI GIÁO
Đầu tiên là đáp
lại nhân đời trước :
Thái tử Tất-đạt không
nối ngôi vua, bỏ người thân lìa đất nước, mục đích là tu hành đắc đạo báo ân
cha mẹ. Nhưng dụng tâm của Bồ-tát, không chỉ vì mình, cho nên mới mở pháp hội
vu-lan, để đem phước đến cho cha mẹ của mình và người, kinh này có ra với mục đích
như vậy.
Thứ Hai là Đáp lời
thỉnh ngày nay:
Đại Mục-kiền-liên vì có
tâm hiếu muốn cứu độ cha mẹ, báo ân bú mớm nên xuất gia tu hành được thần thông
bậc nhất. Quán thấy mẹ mình bị đọa vào loài quỷ đói, tự ngài không thể cứu
được, nên bạch Phật tìm phương cách, Đức Phật bèn chỉ bày pháp cúng dường
Vu-lan, cứu cái khổ treo ngược của mẹ. Vì thương mẹ, ngài thực hành tất cả. Là
đệ tử xuất gia tại gia, xin Phật chỉ dạy pháp môn này, đáp lời thỉnh của
Mục-liên, đó là nguyên nhân Đức Phật nói kinh này.
Thứ Ba là Làm sáng
tỏ hiếu đạo: lại có hai:
– Làm sáng tỏ chung hạnh
hiếu là tông bổn của hai giáo.
– Nói riêng về sự giống
nhau, khác nhau của hạnh hiếu hai giáo.
Trong phần nói chung lại
nói về Nho giáo, lấy hiếu làm gốc. Nghĩa là bắt đầu từ thiên tử cho đến
người bình thường, nước nhà truyền nhau, đều lập tông miếu. Tuy tác dụng của
năm hiếu, khác nhau trăm hạnh nhưng nguồn gốc không khác. Về mở tông nói nghĩa,
trong chương có nêu chí đức yếu đạo, đạo đức lấy đó làm thể, giáo pháp từ đó
sinh ra, lẽ nào có người quân tử mà không lấy đó làm gốc, đã là kinh trời nghĩa
thì phải làm cho mọi người phục tùng. Tuy nói lễ nhạc tiêu mất nhưng cuối cùng
lại quở trách áo gấm cơm gạo, thật rộng lớn thay hạnh hiếu!
Đức của bậc Thánh là làm
thế nào để vun đắp cho hạnh hiếu! Thứ hai là Phật giáo lấy hiếu làm gốc, nhưng
tất cả Chư Phật, đều có chân thân và hóa thân.
– Thuyết Thích-ca hóa
thân, tùy căn cơ mà quyền giáo.
– Thuyết Xá-na chân
thân, là thật giáo rốt ráo. Giáo là kinh luật. Kinh nói về lý trí, luật nói về
đức hạnh, giới tuy muôn hạnh nhưng lấy hiếu làm tông. Cho nên Đức Phật Lô-xá-na
lúc mới thành Chánh giác, liền nói Đại kinh Hoa Nghiêm, là Đại giới của Bồ-tát,
lại ở đầu kinh có nói. Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đầu tiên ngồi
dưới gốc Bồ-đề, thành Vô thượng Chánh giác rồi, bắt đầu kết Ba-la-đề-mộc-xoa,
hiếu thuận cha mẹ, chư Tăng, Tam bảo, hiếu thuận là pháp chí đạo, hiếu chính là
giới, cũng chính là ngăn cấm. Kinh Niết-bàn cũng chép: Kỳ lạ thay cha mẹ! Sinh
ra, nuôi lớn ta… chịu nhiều khổ não, vừa tròn mười tháng, ôm ấp thân ta, sau
khi sinh rồi, nhường khô nằm ướt, trừ bỏ bất tịnh, đại tiểu tiện lợi, bú mớm
nuôi nấng, giữ gìn thân ta, vì ý nghĩa này. Nên phải báo ân, thuận theo cúng
dường. Trên là nói rõ hai giáo lấy hiếu làm gốc rồi.
Thứ hai nói riêng về sự
giống nhau và khác nhau về hiếu hạnh của hai giáo. Trong đó, trước hết là nói
về sự khác nhau, sau là nói về sự giống nhau. Ban đầu nói lúc cha mẹ còn sống
hầu hạ nuôi dưỡng khác nhau, kế đó cha mẹ qua đời phải cúng tế khác nhau. Về
hầu hạ nuôi dưỡng khác nhau: Nho giáo thì cẩn thận giữ gìn da tóc, để tiếng lại
đời sau, cho nên vui xuân không ra khỏi nhà, hội họp con cháu mở ra sự cung
kính. Giáo pháp Đức Thích-ca thì cạo tóc nhuộm áo, pháp giúp cho hiện đời, vì
thế Ưu-đà kính tin, Tịnh Tạng theo tà, đó là nói làm điều lành không giống
nhau. Cùng trở về hiếu. Nói về sự khác nhau sau khi chết: có ba việc khác nhau:
- Cư tang dị: (khác
nhau về để tang) Đạo Nho thì dùng quan quách chôn xuống đất để giữ gìn hình
hài. Còn Đạo Phật thời niệm tụng, cầu nguyện cho thần thức.
- Tề kỵ dị: (khác
nhau về cúng tế): Nho thì chỉnh tề bên trong, yên ổn bên ngoài, nghĩ đến tiếng
nói và mặt mày. Đạo Phật thì cúng tế, giảng kinh, giúp cho nghiệp báo.
- Chung thân dị: (Khác
nhau về cả đời) Đạo Nho giáo giáo thì bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông giết hại sinh
mạng, Đạo Phật thì ba tiết: đoan ngọ, trung thu, nguyên đán phóng sinh,
bố thí, giữ giới, hội Vu-lan. Bởi do Chân tông, chưa đến Chu Khổng.
Lại dạy giữ tâm nay biết lý có chỗ trở về. Không nên còn chấp quyền giáo. Lại
phước lớn thì không gì hơn bố thí, mạng sống là nhân căn bản của Thích phạm,
chính là đức lớn của trời đất.
Nay giết kia cúng đây,
thì đâu gần với lòng nhân? Nếu nhẫn được thì ai không thể nhẫn? Tuy nói rằng
cầu phước nhưng thực tế là gây thêm hận thù. Tự làm theo hư danh, gieo tai họa
ương thần đạo.
Hỏi: Cha
mẹ sinh về đường khác, thì có thể cúng tế, làm chay, nếu đọa vào loài quỷ thì
thà không thiết đãi cúng tế có đúng không?
Trả lời: Nếp
lúa chẳng có mùi thơm thì có thể thường cúng tế, nên biết việc cúng tế mùa xuân
hơn hẳn giết trâu, huống chi là quỷ thần… khác nhau, đâu phải đều thọ
hưởng? Như trên đã nói rõ sự khác nhau rồi.
– Kế là nói về sự giống
nhau, lại có hai: đầu tiên nói về sự giống nhau giữa còn và mất, sau nói về sự
giống nhau giữa tội và phước.
Nay đầu tiên y theo văn
năm câu trong chương Hiếu Hạnh để nói về sự giống nhau, tức thuộc về lúc còn
sống và sau khi chết.
- Lúc cha mẹ còn sống
thì rất cung kính. Đạo Nho thì khác với chó ngựa. Đạo
Phật thì toàn bộ nhiều hơn bảy.
- Nuôi dưỡng thì rất
vui, đạo Nho thì tiếng vui vẻ khi ôn hòa định tĩnh… có khi quạt nóng ấp
lạnh. Đạo Phật thì tiết lượng niềm tin hủy báng phần giảm y bát… Có
khi cắt thịt cứu đói.
- Bệnh thì rất lo lắng:
Trong Nho giáo như vua văn Đế trước nếm thuốc thang, Võ vương không cỡi mũ
đai. Trong Đạo Phật, như Thái tử dùng thịt làm thuốc, cao tăng dùng
thân gánh vác.
- Cha mẹ mất thì rất đau
buồn. Nhà Nho có Võ Đinh không nói, Tử Cao khóc ra máu. Đạo
Phật có Mục-liên khóc lớn, Điều ngự khiêng cỗ quan.
- Cúng tế thì rất trang
nghiêm: Đạo Nho có người cúng tế măng tre. Đạo
Phật thì có việc cho cơm. Nhưng chỗ chí giáo thì vị lai khó mở mang báo ứng.
Cho nên trước đặt ra
pháp cúng tế, khiến cung kính đối với thần linh. Thần linh là thức tánh của cha
mẹ, đủ nói lên sự thường còn của ông bà. Thân tan rã mà thần thức không mất, lẽ
nào coi trọng thân mà xem nhẹ thần thức ư! Những việc khác như trước có nói. Như
trên là nói về sự giống nhau giữa còn và mất đã xong.
Thứ hai là nói về sự
giống nhau giữa tội và phước, giống nhau về tội: Đạo Nho thì điều chướng
vượt quá năm hình, phạm thì phải bị năm khắc mà ân xá không gồm. Đạo Phật nêu
bảy tội nghịch, giới luật có bảy lần ngăn mà chắc chắn đọa vào A-tỳ. Thứ
ba là giống nhau về phước: Nho thì cờ treo báo ở trước cổng. Đạo Phật thì làm
sáng rõ nhân của tịnh độ giới đức. Như trên là nói chung về đạo đã
xong.
Thứ tư là Chỉ bày ruộng
tốt:
Thí như người thế gian
muốn được kho lẫm lương thực, năm thứ ngũ cốc đầy tràn, hàng năm không thiếu
thì phải lấy hạt giống lúa mì tốt, cho trâu cày ruộng mà gieo trồng, không gieo
trồng thì cạn hết.
Trong Phật pháp cũng
giống như vậy, lấy tâm từ bi, tâm cung kính, tâm hiếu thuận làm hạt giống. Lấy
cơm áo, tiền tài, thân mạng làm trâu cày, lấy nghèo bệnh, ba ngôi báu, cha mẹ
làm ruộng đất. Có đệ tử Phật muốn được trong tạng thức trăm phước trang nghiêm
đời đời không hết. Phải vận tâm từ bi, tâm cung kính, tâm hiếu thuận, đem cơm
áo tiền của thân mạng, cung kính, nuôi nấng, cung cấp cho người bệnh nghèo, ba
ngôi báu, cha mẹ, gọi là gieo trồng phước đức, không gieo phước thì nghèo cùng
không có phước tuệ, đọa vào đường sinh tử nguy hiểm, nói trồng ruộng phước, gọi
là ruộng phước. Như ruộng trồng lúa gọi là ruộng phước. Nhưng hạt giống có tươi
mới, khô héo, ruộng có tốt, xấu, như tâm từ bi, cung kính, hiếu thuận có tha
thiết, lơ là. Nghèo có cạn và sâu, bệnh có nhẹ nặng, Phật có chân hóa, hóa có
trụ thế, nhập diệt, pháp có Tiểu thừa, Đại thừa.
Giáo có quyền giáo, thật
giáo, tăng có giữ giới, phá giới. Cha mẹ có hiện đời, bảy đời. Mỗi trường hợp
đầu phối hợp với ruộng tốt xấu, thấy rõ. Nay cúng hội Vu-lan đủ ba thứ ruộng
tốt nên nói là thắng, nghĩa là ngày Phật vui mừng, cúng dường đại đức tịnh giới
tự thứ, gọi là kính điền thắng. Báo ân cha mẹ là ân điền thắng. Cha mẹ đang
trong cơn nguy nan, là bi điền thắng. Vì muốn chỉ bày bi điền thắng nên
Phật nói kinh này.
II.- THUỘC
VỀ TẠNG THỪA NÀO
Thứ
hai là thuộc về tạng thừa nào. Tạng là ba tạng; thừa là năm thừa.
Ba tạng:
- Tu-đa-la KINH
- Tỳ-nại-da LUẬT
- A-tỳ-đạt-ma LUẬN
- Tu-đa-la: Hán
dịch là Khế kinh. Khế là khế lý, khế cơ. Kinh: luận Phật Địa chép: Nghĩa là
quán nhiếp, tức thông suốt nghĩa nên biết, nhiếp trì chúng sinh được hóa độ.
Giáo này giải thích về định học trong ba học.
- Tỳ-nại-da: Hán
dịch là điều phục, điều là điều luyện ba nghiệp, phục là chế phục lỗi lầm. Giáo
này giải thích giới học.
- A-tỳ-đạt-ma: Hán
dịch là đối pháp, pháp là bốn đế Niết-bàn, đối là đối hướng, đối quán. Năng đối
là vô lậu. Giáo này giải thích tuệ học.
Nhưng kinh là hóa giáo,
giáo hóa dắt dẫn. Luật là chế giáo, chế y cứ hành nghiệp. Luận thì giải thích ý
kinh luật. Ở đây Vu-lan-bồn này y theo danh đề thì thuộc về
hóa giáo, thuộc về kinh tạng. Y theo ý nghĩa ấy cũng thuộc về chế
giáo, thuộc về luật tạng.
Năm thừa:
- Nhân thừa
- Thiên thừa
- Thanh văn thừa
- Duyên giác thừa
- Bồ-tát thừa
Gọi thừa là do nó có
công năng vận chuyển. Năm là nói người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát.
Năm hạng này năng lực có lớn nhỏ. Tải (là chở), có xa gần.
- Nhân thừa: Đó
là quy y Phật pháp, tăng và thọ năm giới cấm. Vận chuyển chúng sinh vượt khỏi
ba đường ác, sinh lên cõi người. Nó giống như chiếc thuyền nhỏ vượt qua khe
nước giữa hai núi.
- Thiên thừa: Đó
là mười điều lành thượng phẩm và bốn thiền tám định. Vận chuyển chúng sinh vượt
qua bốn châu, đạt đến cõi trên như thuyền nhỏ vượt qua sông nhỏ.
- Thanh văn thừa: Đó
là pháp môn Bốn đế.
- Duyên giác thừa: Đó
là pháp môn mười hai nhân duyên, đều có công năng vận chuyển chúng sinh ra khỏi
ba cõi. Đến Niết-bàn hữu dư y, Niết-bàn vô dư y, thành A-la-hán và
Bích-chi-phật, giống như thuyền lớn vượt qua sông lớn.
- Bồ-tát thừa: Đó
là pháp môn bi trí Lục độ, vận chuyển chúng sinh vượt khỏi ba cõi cảnh giới ba
thừa, đến bờ kia đại Niết-bàn Vô thượng Bồ-đề, như ngồi thuyền lớn qua
biển.
Nay kinh Vu-lan-bồn này
thuộc về nhân thiên thừa, nằm trong tạng Tiểu thừa.
III.- XÁC
ĐỊNH TÔNG CHỈ
Kinh này lấy hiếu thuận
thiết cúng, nhổ gốc khổ, báo ân làm tông. Ở đây chia ra hai
môn.
- Giải thích hành tướng.
- Phối hợp số câu.
Đầu tiên là nói
Mục-liên, vốn vì hiếu thuận thành kính muốn báo ân đức, năng lực chưa đủ cho
nên trước xuất gia. Cho nên vừa chứng được sáu thần thông, liền quán khắp ba
cõi thấy mẹ mình bị đọa vào loài quỷ đói, tuy thọ hưởng cơm thơm nhưng liền
thành lửa dữ, buồn khóc cầu xin đức Phật, Phật dạy sắm sửa cúng dường
Vu-lan-bồn, cứu vớt thân ra khỏi đường tối tăm, thoát khỏi một kiếp mong báo
đáp ơn sinh thành nuôi nấng của cha mẹ nuôi con, xét kỹ ý chỉ kinh thì có đủ
bốn nghĩa này.
Phối hợp số câu: có bốn
lần bốn trường hợp.
Hai chữ hiếu thuận, tự
có bốn trường hợp.
- Hiếu mà chẳng phải
thuận, như dưỡng trong ba tánh…
- Thuận mà chẳng phải
hiếu, như bệnh đòi thức ăn cấm liền cung cấp cho, muốn làm việc không nên làm
mà không can ngăn…
- Vừa hiếu vừa thuận:
Nghĩa là có ẩn không phạm, ba lần can ngăn mà thuận theo sắc, chỉ quán ba năm
không đổi.
- Chẳng phải hiếu, chẳng
phải thuận. Như hạng an táng cha trong nước.
Dùng tâm hiếu thuận
thiết cúng, đối lại, lại có bốn trường hợp.
- Hiếu thuận mà chẳng
thiết cúng, như Đổng ám vương tường…
- Thiết cúng mà chẳng
phải hiếu thuận: vì mình cầu phước mà tu trai giới…
- Vừa hiếu
thuận, vừa thiết cúng: tức là hội Vu-lan.
- Chẳng phải hiếu thuận,
chẳng thiết cúng: Nghĩa là trái nghịch mà keo kiệt.
Vì hiếu thuận đối với
nhổ gốc khổ, cũng có bốn trường hợp:
- Hiếu thuận chẳng phải
nhổ gốc khổ. Nói Đổng Vĩnh…
- Nhổ gốc khổ, chẳng
phải hiếu thuận: nói cứu nỗi khổ cho người khác.
- Vừa nhổ gốc
khổ vừa hiếu thuận, tức là hội Vu-lan.
- Chẳng phải nhổ gốc
khổ, chẳng phải hiếu thuận: Như người trái nghịch thấp hèn.
Vì hiếu thuận đối với
báo ân, cũng có bốn trường hợp:
- Hiếu thuận chẳng phải
báo ân, giữ gìn da tóc, không kiêu ngạo, chẳng phải pháp không nói.
- Báo ân chẳng phải hiếu
thuận, giúp đỡ ăn uống, tu hành đền ơn thí chủ…
- Vừa báo ân vừa hiếu
thuận như hội Vu-lan-bồn.
- Chẳng phải báo ân,
chẳng phải hiếu thuận là người trái nghịch, phụ ân.
Nay tu pháp Vu-lan-bồn này, tròn
bốn hạnh được công đức, đâu có gì so sánh được? Thực nhờ cảnh tốt đẹp,
tâm rộng lớn, thấu suốt thần lý.
IV.- GIẢI
THÍCH VĂN KINH
PHẬT THUYẾT
VU LAN BỒN KINH
Tây-Tấn,
Tam-Tạng Pháp-Sư Trúc-Pháp-Hộ dịch
Trong chính giải văn
kinh có hai:
Ban đầu giải thích đề
mục; hai là giải thích văn bản.
- Trước giải thích đề
mục: “Phật nói kinh Vu-lan-bồn”. Kinh
này gồm có ba bản dịch.
(Võ Đế Đời Tấn, sát pháp
sư dịch là kinh Vu-lan-bồn.
(Đời Tuệ Đế Pháp sư Pháp
Cự dịch là kinh Quán Lạp, nên văn này nói: Đầy đủ trăm vị, năm thứ trái cây và
các đồ dùng hương dầu đèn đuốc…)
Bản xưa ghi riêng, lại
có một vị Sư dịch là kinh Báo Ân, y cứ theo hạnh thực hành mà đặt tên. Bản dịch
ở đây sẽ giải thích chính là bản dịch đầu tiên. Tam tạng Nghĩa Tịnh nói: Ban ra
nói từ miệng mình, tâm kia nhờ sự chỉ giáo hợp với căn cơ, nên gọi là Phật
nói.
Vu-lan là
tiếng Tây Vực, Hán dịch Đảo Huyền (treo ngược).
Bồn là
âm Đông hạ, chính là đồ dùng để cứu giúp, hoặc tùy theo phong tục của địa
phương nên nói cứu đảo huyền bồn (cứu khổ treo ngược). Đây là do hồn mẹ Tôn giả
chìm trong đường tối tăm, vừa đói vừa khát mạng như treo ngược, cho dù oai linh
của đệ tử bậc Thánh cũng không thể cứu giúp sự đau khổ. Phật dạy trong bồn đặt
trăm thức ăn để hiến cúng ba ngôi báu, nhờ ân đức của đại chúng mà cứu nỗi khổ
gấp treo ngược, tức lấy nghĩa này mà đặt tên kinh.
Kinh gọi
đúng là tuyến, nghĩa là Khế kinh, tuyến là sợi chỉ để xỏ hoa, sợi dọc để giữ
sợi ngang, tức nghĩa sở thuyên như sợi ngang, ví như hoa. Văn năng thuyên để
giữ gìn sự xâu suốt, nay thuận theo kinh sách của Trung Quốc thì dùng đề mục
gọi là kinh, mượn nghĩa giúp tên, vẫn thêm chữ khế, ở đây giải thích phù hợp
với luận Phật địa. Nghĩa là xuyên suốt trong hai nghĩa. Nghĩa là kết thành
tràng trong năm nghĩa của luận Tạp Tâm.
- Giải thích bản văn:
Phần giải thích bản văn
chia làm ba:
- Phần tự.
- Phần Chánh tông.
- Phần Lưu thông.
PHẦN
TỰ
Văn như thị: nhứt thời
Phật tại Xá-Vệ quốc, Kỳ-thọ Cấp-Cô-Ðộc viên.
Ðại Mục-Kiền-Liên, thỉ
đắc lục thông, dục độ phụ-mẫu, báo nhũ bộ chi ân.
Tức dĩ đạo-nhãn quán thị
thế-gian, kiến kỳ vong-mẫu sanh ngạ-quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt
liên lập.
Mục-Liên bi ai, tức dĩ
bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ-mẫu.
Mẫu đắc bát phạn, tiện
dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ suy tự.
Tự vị nhập khẩu, hóa
thành hỏa thán, toại bất đắc thực.
Tôi nghe như vầy: Một lúc nọ, đức Phật ở
trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tại nước Xá Vệ.
Ông Đại Mục Kiền Liên vừa mới chứng được sáu
pháp thần thông ông muốn cứu độ cha mẹ của ông để đền đáp công ơn bú
mớm.
Ông liền dùng đạo nhãn xem khắp trong thế
gian, thấy bà vong mẫu của ông sanh vào trong loài ngạ quỷ chẳng
được uống ăn, thân thể ốm gầy da bọc lấy xương.
Thấy thế, ông Mục Liên chẳng xiết xót thương,
liền lấy bình bát đựng cơm đem dâng cho mẹ ông.
Mẹ ông tiếp được bình bát cơm, bèn dùng tay trái
che bát, tay mặt bốc cơm.
Cơm của bà bốc chưa vào đến miệng đã hóa thành
than lửa, bà ăn không đặng.
TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY :
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng ĐẠO NHÃN dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.
SỚ GIẢI :
Vì sự phân chia ba phần
nên sự phân chia của ngài Di Thiên phù hợp với Tây Vực, xưa nay cùng đều. Trong
phần tựa ở đầu các kinh phần thường có hai lời tựa.
1. Tựa chứng tín:
Nói ta nghe Đức Phật nói
pháp như vậy, khi nói, chỗ nói rõ ràng, đại chúng cùng nghe chẳng lầm, để làm
chứng cứ khiến người khác nghe thọ. Kinh không có y cứ, không có chứng tín thì
không truyền, do vậy ở đầu kinh phải có chứng tín, cho nên luận Trí Độ chép:
Khi nói mới khiến cho người sinh tín.
2. Tựa phát khởi:
Là cách phát minh làm
kính tin chánh tông. Như các loại lọng báu trong kinh Tịnh Danh và ánh sáng từ
sợi lông trắng của kinh Pháp Hoa. Song chứng tín cũng gọi là tựa chung, các
kinh đều giống nhau. Cũng gọi là bài tựa sau kinh. Khi Phật nói pháp thì chưa
có. Phát khởi cũng gọi là tựa riêng, các kinh đều khác nhau, cũng gọi là bài
tựa trước kinh, Phật trước tự phát khởi, mới nói phần chánh tông.
– Trước là tựa chứng
tín:
Nghe như vầy, một thuở nọ,
Đức Phật ngự trong vườn cây Cấp cô Độc, rừng cây Thái tử kỳ-đà, thuộc nước
Xá-vệ, khi Phật sắp nhập Niết-bàn, A-nan thưa hỏi bốn việc, Đức
Phật dạy nên để câu này, bốn việc đã hỏi, Đức Phật sẽ đáp từng câu một:
– Nương vào bốn niệm xứ.
– Lấy giới làm thầy.
– Mặc tẩn Tỳ-kheo có
tánh xấu.
– Tôi nghe như vầy
Ở đầu tất cả các kinh
đều ghi: “Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại chỗ nào đó và chúng
bao nhiêu người…” các kinh phần nhiều có đủ sáu thứ thành tựu. Văn hoặc thiếu
hoặc lược nhưng nghĩa phải đủ. Sáu thứ thành tựu gồm:
Tín thành tựu.
Văn thành tựu.
Thời thành tựu.
Chủ thành tựu.
Xứ thành tựu.
Chúng thành tựu.
Sáu duyên này không đủ
thì giáo pháp không hưng thịnh. Phải đầy đủ sáu thứ này, cho nên nói thành
tựu. Kinh này thiếu phần nêu chúng. Lại văn thành tựu ở đầu
khác với kinh khác, đều là do ý của người dịch, hoặc nói pháp này ta nghe Phật
nói, hoặc nói ta ở bên Phật nghe pháp như vậy, đều là từ ngữ chỉ cho pháp. Lại
không nói tôi (ngã): Ý nói bậc Thánh đều chứng lý vô ngã. Các kinh có: Tức là
A-nan tự chỉ năm uẩn là giả, không giống như ngã của tình chấp, cũng không có
lỗi. Nghe nghĩa là nhĩ căn phát thức, nghe tiếng ngoài kia. Kế nói như vầy là
tín thành tựu. Tín là nói việc ấy như thế, bất tín là nói việc ấy không đúng
như thế, cho nên Tăng Triệu nói là lời tín thuận. Một thuở nọ: Thầy trò hội họp
nói nghe rốt ráo, gọi chung là Một thuở nọ, để phân biệt với lúc khác. Nghĩa là
Như Lai nói kinh, bấy giờ có vô lượng, không thể nêu riêng. Một là ý nói rộng
khắp nên chỉ nói Một.
Thời phần ở các nơi dài
ngắn không nhất định, nên nói chung là Một thuở. Nhưng trong các kinh không chỉ
định thời, mà phải chỉ định xứ, có khi giải thích dẫn đến khó khăn cho nên
không dùng. Nay rõ ý kia, dùng xứ thì không ngoài mười sáu nước, tùy chỗ đến giáo
hóa mà có số ấy, là dễ nêu lên chỉ bày. Thời thì có năm tháng, xuân thu, nóng
lạnh, ngày đêm, dần, mão, chốc lát, thay đổi nhanh chóng, chứa nhóm vô số
lượng, không thể nói hết, khó nêu lên để chỉ bày. Phật, tiếng Phạm là Phật-đà,
Hán dịch là Giác, là người hiểu rõ tánh tướng của chân vọng. Giác có ba nghĩa:
– Tự giác ngã
không: Để phân biệt với phàm phu.
– Giác tha pháp
không: Để phân biệt với Nhị thừa.
– Giác mãn câu
không hợp với bổn giác, gọi là rốt ráo giác, hoặc gọi Đại giác, Diệu giác,
để phân biệt khác với Bồ-tát.
Tại Xá-vệ… là
xứ thành tựu. Chân Đế ghi rằng: Trú xứ có hai:
– Cảnh giới xứ: Vì
hóa sinh vào dòng của thế tục.
– Y chỉ xứ: Chỉ
chung tất cả chúng xuất gia.
Ban đầu là Xá-vệ, sau đó
là Kỳ viên. Luận Bà-sa chép: Nêu Xá vệ thì giúp người ở xa biết, nêu Kỳ viên
thì giúp người ở gần biết. Xá vệ, Hán dịch là Văn vật, nghĩa là đầy đủ các vật
quý báu, người học rộng giải thoát, xa nghe các nước. Kinh Kim cương do Nghĩa
Tịnh Tam tạng dịch gọi đại thành. Kỳ viên… tức là cây của Thái tử Kỳ-đà cúng,
vườn do Trưởng giả Cấp Cô Độc mua. Kỳ-đà, Hán dịch là Chiến thắng, là Thái tử
con vua Ba-tư-nặc. Khi Thái tử sinh, vua đánh nhau với nước ngoài được chiến
thắng, do đó mà đặt tên. Cấp Cô Độc là hiệu của vị quan ông vốn tên là
Tu-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, nói Cấp Cô Độc, chính là Thiện Thí, lại
thường thực hành bố thí nên gọi là Thiện Thí, người trong làng gọi ông bằng tên
gọi đẹp đẽ Cấp Cô Độc. Nhưng vườn chính là do Tu-đạt mua, cây do Thái tử Kỳ-đà
cúng, vườn chung cây riêng, trước hợp lại nêu vườn, nay vì lễ có tôn ti khác
nhau, nêu cây trước vườn sau.
Tây quốc gọi tự (chùa)
là Tăng-già-lam-ma, Hán dịch là chúng viên. Do Phật giáo truyền về phía Đông,
ban đầu đến Trung Quốc, dừng lại chùa Hồng Lô, khách tăng nước ngoài từ từ đông
hơn, phân tán ra ở nhiều chỗ ở khác, mà còn giữ hiệu cũ này thì đều gọi là Tự!
Cấp Cô mua vườn và cây ấy: Kinh Niết-bàn chép: “Trưởng giả Tuđạt là người đi
hỏi vợ cho con, đến thành Vương xá, nhân thấy Phật phát tâm, mời Phật đến Xá-vệ
nói pháp, Đức Phật sai Xá-lợi-phất theo Cấp Cô trở về, trước chọn trụ xứ, chọn
được vườn của Thái tử Kỳ-đà, Trưởng giả hỏi mua, Thái tử nói đùa: Đem vàng lót
khắp mới bán.
Trưởng giả liền muốn
giao vàng, Thái tử nói: Tôi nói chơi, liền nhờ người xử đoán việc này, người
kia xử y theo lời nói trước đây, Trưởng giả chở vàng trải khắp, chỉ dư một góc,
Thái tử thấy Trưởng giả không tiếc tài bảo, biết Phật là đấng tôn quý, liền
cúng thí đất còn dư để lập tịnh xá, cúng thí cây trong vườn để làm bóng mát,
hai người chung sức xây thành Tịnh xá, thỉnh Phật đến ở, nên gọi là Kỳ thọ…
Thiếu chúng thành tựu vì văn sơ lược. Như kinh Vô Thường… nhưng có thời thì
phải đủ đồ chúng, cuối kinh nói bốn chúng đệ tử vui mừng vâng làm.
– Sau Tựa phát khởi:
Phát khởi: Kinh
này đã lấy hiếu thuận dứt khổ làm tông, nhờ duyên cứu mẹ mà làm phát khởi.
Văn chia làm sáu:
Mục-liên đã chứng đạo
quả.
Biết ân muốn báo đáp.
Tìm kiếm khắp nơi.
Thấy được nơi mẹ ở.
Buồn lo khóc lóc đến
cứu.
Thói quen xấu hiện tiền.
1. Mục-liên đã chứng đạo
quả:
Đại Mục-kiền-liên mới
chứng được sáu thần thông, người này tên là Đại Mục-kiền-liên, đời Đường dịch
là Thái Thúc Thị, nước ấy thời thượng cổ có vị Tiên thường ăn rau đậu, Tôn giả
thuộc dòng họ ấy. Tên Ni-câu-luật-đà, tức là tên cây. Cha mẹ Tôn giả nhờ cúng
tế thần cây này mà sinh tôn giả, nên lấy tên cây đặt tên Tôn giả. Tôn giả là
con của quan phụ tướng trong thành Vương xá, người đương thời rất quý dòng họ
ấy cho nên gọi là “Thị”. Mới chứng được sáu thần thông: Mới tức là vừa, vừa
được Thánh đạo liền cứu độ cha mẹ. Vốn vì mẹ mà tu đạo, đạo tuy không khác,
nhưng bản nguyện mỗi người đều khác, cho nên các vị Thánh không hẳn đều như
vậy. Sáu thần thông gồm:
- Thần cảnh
thông, trí chứng được cảnh thần, cũng gọi như ý thông, thân như ý mình,
muốn đến thì đến ngay.
- Thiên nhãn
thông.
- Thiên nhĩ
thông, thấy được, nghe được, hoặc gần hoặc xa, nội chướng ngoại chướng,
sắc, thanh…
- Túc mạng
thông: Biết được việc nhiều đời trước của mình và người.
- Tha tâm
thông: Đối với tâm định, tâm tán, hữu lậu, vô lậu, tất cả đều biết.
-Lậu tận thông: Biết
được trong thân lậu hết, sáu thứ đều không trệ ngại nên gọi chung là Thông.
2. Biết ân muốn báo đáp:
Muốn cứu độ cha mẹ, báo
đáp ân bú mớm, độ là độ thoát, nhưng hai chữ báo ân chỉ là nêu chung hư vị. Độ
thoát chính là sự báo ân ấy, bú là bú sữa mẹ, mớm là cho ăn. Nhưng cha mẹ có xa
gần, ân có nhẹ nặng, báo có phần báo toàn báo. Xa thì bảy đời cho đến nhiều
đời, gần thì ngay đời này. Bảy đời được Ngoại giáo tôn sùng, người do hình chất
làm gốc, lưu truyền thể nối nhau, vì cha mẹ trở lên là bảy đời, chỉ tôn trọng
cha.
Theo chỗ y cứ của Phật
giáo, thì người lấy linh thức làm gốc. Hình chất bốn đại là chỗ nương của linh
thức, đời đời kiếp kiếp đều có cha mẹ, sinh dưỡng thân này, về trước cho đến
cha mẹ bảy đời là bảy đời vậy. Nhưng chỉ gởi gắm ở trong thai mẹ, từ khi sinh
ra về sau bồng ẵm, ôm ấp phần nhiều cũng là mẹ, cho nên nghiêng nặng về mẹ, vì
vậy trong kinh chỉ nói báo đáp ơn bú mớm. Cho đến nhiều đời thì trong đó chỉ
lấy tất cả cha mẹ sinh thân từ khi quy y Phật về sau, sinh ra thân ta tu đạo,
khi các Đức Phật thành đạo, cha mẹ nhiều đời đều gặp gỡ nhau, nghe pháp được
lợi ích. Ân có nặng nhẹ: Đời này cha mẹ nặng nhất, còn lại là nhẹ dần.
Báo có phần báo, toàn
báo một đời hầu hạ nuôi nấng là phần, độ thoát nhiều đời là toàn báo, cho nên
kinh nói: “Vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, đi khắp mặt đất, cũng không thể
báo đáp ân đó”. Cho nên biết sự báo đáp đời này là phần báo; dù cho đồng với
Mạnh Tông, cùng loại với Đỗng Vĩnh cũng chỉ là phần báo. Nay kinh nói: Muốn độ
cha mẹ là ý giúp cho đắc đạo, muốn nói về toàn. Nói chung, nếu không báo đáp
thì là người mắc tội bất hiếu, huống chi thêm việc nghịch, lại bàn phiếm ân của
tất cả mọi người, kinh Hoa Nghiêm chép: Người không biết ân phần nhiều bị chết
ngang trái.
Kinh Quán Phật
Tướng Hải chép: Có ân không báo đáp là nhân A-tỳ, các ân còn như vậy, huống chi
là cha mẹ, ân cha mẹ không thể so sánh, cho nên có bài thơ nói:
“Ngọn gió vi vu lay động
ngọn cỏ
Xót thương ân cha mẹ
sinh ta”.
Cho đến không có cha để
nương cậy, không có mẹ để dựa nhờ, ra thì ngậm đắng, vào thì chưa đến, mẹ sinh
ta ra, cha nuôi dưỡng ta, vỗ về ta, muốn ta khôn lớn, dạy dỗ ta, chăm sóc ta,
nuông chìu ta, muốn báo đáp ân đức như vói lên trời cao không cùng. Cho nên Tam
Tạng nói: Cha mẹ nghĩa cao trời, đất ân sâu như biển lớn. Vì thế nhất quyết
phải ghi nhớ vào lòng, đền đáp ân đức công lao khó nhọc. Kinh Phụ Mẫu Ân Trọng
chép: Cha mẹ ôm ấp mỉm cười chưa nói tiếng đùa, khi đói phải ăn chẳng phải mẹ
không nhai, khi khát phải uống chẳng phải mẹ không cho bú… Tính kể ân mẹ như
vói lên trời cao không cùng. Than ôi! Mẹ hiền làm sao báo đáp… còn đi đến đông
tây, xóm làng, không thường về nhà, lòng mẹ hốt hoảng lo lắng, vú sữa chảy ra,
liền biết ở nhà con ta nhớ ta, liền trở về nhà.
Hỏi: Xét
văn Kinh này đơn giản mộc mạc, lại khuyên răn siêng những người nghèo hèn là vì
sao?
Đáp: Quân
tử tự mình hiếu thuận cho nên khuyên tiểu nhân. Lại nữa, quân tử có cái nghèo
của gáo tre, đâu đề phòng những việc lặt vặt! Lại nói những lời khó khăn gian
khổ mới làm sáng tỏ được công lao nuôi dưỡng. Lại nói: Con trẻ xa thấy mẹ đến,
hoặc ngồi trên xe nghiêng đầu hớn hở, hoặc là kéo áo chạy theo.
Than ôi! Người mẹ, mẹ vì
con trẻ mà khom mình chịu thấp, lớn lên hai tay bốc cát đất, miệng thì khóc la,
mẹ vạch áo đưa vú cho con bú. Mẹ thấy con thì vui, con thấy mẹ thì mừng, tình
cảm mẹ con yêu thương rất nặng, chẳng gì hơn thế, đã sinh trưởng bạn bè theo
nhau, chải đầu vuốt tóc muốn có áo đẹp che phủ thân con, áo xấu cũ rách cha mẹ
tự mặc, vải lụa mới đẹp trước cho con mặc, cho đến đi lại việc quan, mau mau
vội vàng, tâm nghĩ nam bắc ruổi theo con khắp nơi, trên đầu tóc rối. Con dần
dần lớn khôn, thì đòi lấy vợ, sinh được con cái, đối với cha mẹ trở nên lơ là.
Trong phòng cùng nhau nói chuyện vui vẻ, cha mẹ tuổi cao sức yếu, từ sáng đến
tối không đến hỏi han, hoặc cha mẹ cô đơn ở riêng phòng trống, giống như người
khách nương nhờ nhà người, thường không thương yêu, hoặc không áo mền lạnh lẽo
cay đắng, gặp nguy nan quá lắm!
Tuổi già sắc thân suy
yếu thêm nhiều rận rệp, khuya sớm không nằm thở dài than vắn, đời trước tội gì,
đời nay con bất hiếu. Hoặc khi cha mẹ gọi, nó trợn mắt tức giận, không chịu
vâng theo, vợ con trách mắng cúi đầu ngậm cười. Phạm thiên, Đế Thích, các trời,
nhân dân, tất cả chúng hội, nghe kinh vui mừng phát tâm Bồ-đề. Gào khóc động
địa, lệ rơi như mưa.
Lời bình rằng: Suy
nghĩ kỹ việc kia thật thay lời nói đúng. Hoặc có mẹ mà không bằng đứa con này,
không như người kia, trong trăm không có một. Vì chúng sinh vô minh từ vô thỉ
mê chân chấp vọng, vì cội gốc điên đảo, nhánh nhóc mỗi mỗi đều như
vậy. Họa thay! Phàm ngu, làm sao độ được!
3. Tìm kiếm khắp nơi:
Liền dùng đạo nhãn quán
sát thế gian, là quán xét chỗ sinh là thiên nhãn thông, do chứng đạo mà được
cho nên nói là đạo nhãn. Thế gian có hai: Nói ba cõi là khí thế gian, sáu đường
là hữu tình thế gian, nhưng Tôn giả ngày mất mẹ còn là phàm phu, chẳng biết cha
mẹ sinh về đường nào? Nay chứng quả Thánh có thể tìm cầu. Vì thiên nhãn quán
thấy từ trên xuống dưới trong ba cõi, tìm mẹ trong sáu đường, được thần thông
liền quán, cho nên nói là liền.
4. Được thấy hiện tại:
Thấy vong mẫu kia đọa
vào loài quỷ đói, không được ăn uống, chỉ còn da bọc với xương, vốn quán thế
gian đều tìm cha mẹ, cha sinh về chỗ vui không nhờ cúng thí, đã chẳng phải tông
chỉ của kinh cho nên ở đây không nói. Mẹ sinh đường quỷ đã thuộc ba đường, lại
ở quỷ đói, là nơi khổ nhất của quỷ, dứt trừ khổ ấy chỉ có Vu-lan-bồn, phát khởi
ý nghĩa chánh tông là ở đó. Đọa vào loài quỷ đói là quả dị thục, do đáp lại dẫn
nghiệp. Không được ăn uống là quả đẳng lưu. Đáp lại dẫn nghiệp, là quả của
nghiệp tham ăn. Còn da bọc xương là quả tăng thượng, y theo chánh lý mà luận:
Quỷ vốn ở dưới năm mươi do-tuần của châu này, mỗi bề cũng bằng như vậy. Có quỷ
Diệm-ma-la, từ đây xoay vần đến khắp các phương khác, ở nhân gian một tháng thì
cõi này là một ngày, nương vào sự chứa nhóm nhiều năm nhiều tháng này mà sống
lâu năm trăm tuổi. Nhưng quỷ có ba loại:
Vô tài quỷ: vì
không có phước đức nên không được ăn.
Thiểu tài quỷ: được
chút ít thức ăn uống ngon.
Đa tài quỷ: được
nhiều thức ăn uống ngon.
Ba thứ quỷ này mỗi thứ
lại có ba:
- Quỷ miệng đuốc: Lửa
thường cháy hừng hực từ trong miệng tuôn ra, do đời trước đốt cháy xóm làng,
thiêu đốt người hiền lương. Vì việc cầu tài vật này mà đọa vào địa ngục. Từ địa
ngục ra lại đọa vào loài quỷ này. Cho nên kinh Chánh Pháp Niệm chép: “Niếu
người san tham, ganh ghét chiếm đoạt tài vật của người, phá thành quách của
người, giết hại tịch thu, cướp bóc được tài vật, dâng lên vua quan, càng thêm
hung bạo, đọa trong loài quỷ lửa cháy.
- Quỷ cổ nhỏ như lỗ
kim: Bụng lớn như núi, cổ nhỏ như lỗ kim, do phá trai ăn đêm, trộm
cắp thức ăn của chúng Tăng, cho nên kinh Trai Pháp Thanh Tịnh chép: Ngài
Mục-liên đi giữa đường gặp mấy trăm muôn con quỷ, đầu lớn như ngọn núi to…
- Quỷ miệng thối: Trong
miệng có mùi hôi thối, tự làm ác chịu khổ, vì thường ham danh lợi, tự cho mình
phải, người khác quấy, khen ngợi người ác, chê bai người hiền thiện. Y theo ba
loại này, thà nuốt hoàn sắt nóng chứ không ăn dùng của tín thí, quỷ của
thiểu tài có ba thứ là:
– Quỷ lông kim: Lông
nhọn như kim, khi đi liền tự chích, vì tham lợi, nên châm cứu đại và chích súc
sinh, chỉ vì cầu tài chứ không mong cho người hết bệnh.
– Quỷ lông thối: Lông
nhọn hôi thối, tự nhổ chịu khổ, vì buôn bán heo dê, chưng hầm ngỗng vịt, nước
sôi nung nấu rã ra từng mảnh, đau khổ khó chịu nổi, tội địa ngục hết rồi lại
đọa vào đường quỷ này.
– Quỷ bướu lớn: Cổ
nhỏ bướu lớn, tự móc lấy mủ mà ăn, do ganh ghét với người thường, ôm lòng tức
giận.
Quỷ Đa tài có ba loại
là:
- Quỷ được độ vất bỏ: thường
được thức ăn do cúng tế vứt bỏ, vì tội nhiều phước ít, ít cúng thí, nặng về san
tham, đồ vật quăng bỏ, mới đem cho người.
- Quỷ được mất: Thường
được thức ăn còn sót lại, trong hang cùng ngõ hẻm, đối với tài vật hiện tại
thường sinh tham đắm, nghĩ sắp mất rồi mới xả.
- Quỷ Thế lực: Như
quỷ Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà… được hưởng các sự giàu có, an vui giống như trời,
người, hoặc nương rừng cây, hoặc ở trong hang núi, hoặc ở linh miếu, hoặc ở hư
không, thân thẳng bay đi, thuộc về đường quỷ, các thứ biến hóa này là do nhân
địa tội phước không rõ ràng, nhân khổ vui xen nhau. Trong Phó Pháp Tạng chép:
Tỳ-kheo, Tăng-già-da-xá, đi bên bờ biển lớn thấy cung điện tuyệt đẹp, cung điện
ấy có khóa hai con quỷ… Nay mẹ của tôn giả, chính là quỷ miệng lớn
trong quỷ vô tài.
Lại có chỗ nói: Ngạ
quỷ có ba loại:
– Chướng bên ngoài: Khi
được gặp nước liền thấy một người cầm dao, gậy… làm chướng ngại.
– Chướng bên trong: Miệng
có đuốc lửa, hoặc cổ nhỏ như lỗ kim.
– Vô chướng: Thấy
sông là lửa dữ, hoặc ăn phẩn nhơ, hoặc tự cắt thịt thân mình mà ăn… nay mẹ của
tôn giả đang bị chướng bên ngoài. Trên đây các quỷ đều do nhân hạnh của tự tâm
vời lấy, quả báo chắc chắn có ứng nghiệm. Ví như bóng và tiếng vang do nơi thân
và âm thanh, dù cho cha mẹ cho đến bà con cũng không thể thay thế nhau được. Vì
thế những người hiểu biết nên mỗi người khích lệ tâm mình. Nếu gặp duyên tốt
không nên bỏ qua. Một mai qua đời thì ai là người tu hành. Dù nương nhờ con
cháu bảy phần chỉ được một, huống chi không có con hiếu thảo! Hối hận sao tìm
được!
Vả lại phàm phu đời vẩn
đục ít người có tâm nhân hiếu, chỉ lo vợ con, đâu nghĩ đến (u linh) linh hồn
người chết. Người nghèo hèn bị ép ngặt vì đói lạnh. Người giàu sang bị mê loạn
bởi tài sắc, dù cho có thể truy phước đức thì lại nhàm chán công khóa nhiều,
hết sức hết lòng muôn người không có một, đường đời tận mắt trông thấy đâu
không xét rõ! Cho nên kinh Ân Trọng chép: Vợ chồng hòa hợp cùng gây ra năm tội
nghịch, lúc ấy kêu gọi mau mau đi nhanh. Lời của cha mẹ kêu mười trái hết chín,
không vâng theo lời, mắng nhiếc tức giận sống còn như vậy, chết rồi có thể
biết. Mình đã bất nhân thì con mình làm sao hiếu được! Cho nên xưa có người
tiễn đưa ông nội lên rừng vắng, còn giữ xe trở về, đem chuyện xưa xét việc nay
tuy đường đi dấu vết khác nhau mà lòng thì giống nhau.
5. Cảm động khóc đến
cứu:
Mục-liên buồn rầu liền
lấy bát đựng cơm đem đến dâng cho mẹ. Bi ai: công ơn sinh thành nuôi dưỡng nặng
như trên đã nói, chết rồi chia biệt, cách đời bỗng nhiên gặp lại, dù muốn dung
nhan như cũ cũng đáng khóc lóc buồn thương, huống chi thấy hình quỷ da bọc
xương, trong miệng khói lửa, trong bụng trống rỗng, khổ như treo ngược mạng chỉ
thở hổn hển, đâu không thể nghiền thân đấm ngực khóc lóc gào thét, hận tội
nghịch chỉ biết an nhàn trước mắt, đau xót sự chịu khổ của mẹ mình. Kinh nêu ý
chung chỉ nói buồn thương. Xét kỹ lúc bấy giờ sao nghi không như thế! Cho nên
Tam Tạng khoa nói là suy động. Giải thích rằng: Cảm động thấu xương tủy, kêu
gào động trời đất. Bưng bát cơm đến cho mẹ ăn: mẹ đã kéo dài hơi thở thường rơi
vào khốn khổ đói khát, vừa đói lại vừa khát, đúng lý phải cứu giúp, cứu đây là
gấp cơm ăn là trước, cho nên lấy bát đựng cơm đem đến dâng mẹ.
6. Thói xấu hiện còn:
Mẹ được bát cơm liền đưa
tay trái che bát, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng hóa thành than lửa đỏ
hồng nên không ăn được. Cảnh tùy tâm thay đổi, quả dựa vào nghiệp mà thành.
Nhân đói khát chưa dứt thì duyên no đủ đâu có được! Quỷ là miệng đuốc, thức ăn
gần miệng mà hừng hực, nước thành băng cứng, băng gần nước sôi mà cứng như vậy.
Cho nên biết thần lực không cấm được nghiệp lực. Dứt đói khát quan trọng lại
dứt san tham, cho nên sáu thần thông đến dâng cơm mà với lấy tai ương, trăm vị
bày biện trong bồn mà chịu khổ. Lớn thay nghiệp chín muồi suy nghĩ được ư! Nay
tay trái che bát tham sợ xâm chiếm các thứ khác, tay phải bốc cơm tham lam chỉ
để mình ăn, tham lam dữ dội hiện hạnh như vậy. Cơm canh duyên kém làm sao mà
cứu giúp! Cho nên hóa thành lửa không ăn được. Trên đây phần tựa đã
xong.
PHẦN
CHÁNH TÔNG
Mục-Liên
đại khiếu, bi hiều thế khấp, trì huờn bạch Phật, cụ trần như thử.
Phật
ngôn : “Nhữ mẫu tội-căn thâm kiết, phi nhữ nhứt nhơn lực sở nại hà !
Nhữ
tuy hiếu-thuận, thinh động thiên-địa, Thiên-thần, Địa-kỳ, tà-ma, ngoại-đạo,
đạo-sĩ, tứ Thiên-Vương Thần, diệc bất năng nại hà !
Ðương
tu thập-phương chúng Tăng oai-thần chi lực, nãi đắc giải-thoát.
Ngô
kim đương thuyết cứu-tế chi pháp, linh nhứt-thiết nạn, giai ly ưu khổ.
Phật
cáo Mục-Liên : “Thập-phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhựt, Tăng Tự-tứ
thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện-tại phụ mẫu ách nạn trung giả, cụ
phạn bá vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du, đính chúc, sàng phu ngọa cụ,
tận thế cam mỹ, dĩ trước bồn trung, cúng-dường thập-phương đại đức chúng Tăng.
Ðương thử
chi nhựt, nhứt thiết Thánh-chúng, hoặc tại sơn gian thiền-định, hoặc đắc tứ đạo
quả, hoặc tại thọ hạ kinh-hành, hoặc lục-thông tự-tại giáo-hóa Thanh-văn,
Duyên-giác, hoặc thập-địa Bồ-tát đại-nhơn, quyền hiện Tỳ-kheo tại đại-chúng
trung, giai đồng nhứt tâm thọ bát-hòa-la phạn, cụ thanh-tịnh giới Thánh-chúng
chi đạo, kỳ đức uông dương.
Kỳ hữu
cúng-dường thử đẳng Tự-tứ Tăng giả, hiện thế phụ-mẫu, lục-thân quyến-thuộc, đắc
xuất tam-đồ chi khổ, ứng thời giải-thoát, y thực tự-nhiên.
Nhược
phụ-mẫu hiện tại giả phước lạc bá niên.
Nhược
thất thế phụ-mẫu sanh Thiên, tự tại hóa sanh nhập Thiên-hoa quang”.
Thời,
Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ mông chú nguyện, nguyện
thất thế phụ-mẫu, hành thiền-định ý nhiên-hậu thọ thực.
Sở thọ
thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng Tăng chú
nguyện cánh, tiện tự thọ thực.
Thời,
Mục-Liên Tỳ-kheo cập đại Bồ-tát chúng, giai đại hoan-hỉ: Mục-Liên bi đề khấp
thinh thích nhiên trừ diệt.
Thời,
Mục-Liên mẫu tức ư thị nhựt, đắc thoát nhứt kiếp ngạ-quỉ chi khổ.
Ông Mục Liên kêu to, buồn rầu khóc lóc, vội vã
trở về bạch với đức Phật, thuật đủ những việc như thế.
Đức Phật dạy rằng: "Tội căn của
mẹ ông gây kết sâu nặng, chẳng phải thần lực của một mình ông mà có thể làm cứu
được.
Dầu rằng ông có lòng hiếu thuận, tiếng tăm vang
động cả trời đất, mà những vị thiên thần, địa kỳ, tà ma, ngoại đạo, đạo sĩ và
bốn vị Thiên vương thần cũng không thể làm thế
nào cứu được.
Cần phải nhờ đến sức oai
thần của chúng Tăng ở mười phương, mẹ ông mới có thể giải thoát.
Nay Ta sẽ nói phương
pháp cứu tế, làm cho tất cả kẻ bị hoạn nạn như thế, đều được thoát khỏi những
sự buồn khổ ".
Đức Phật bảo ông Mục Liên: "Ngày
rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ của chúng Tăng ở mười phương, đến
ngày ấy người làm con phải nên vì cha mẹ trong bảy đời đã qua và cha
mẹ trong đời hiện tại đang bị khổ trong vòng ách nạn, mà sắm những giường trải
nệm chiếu, những bồn chậu đựng nước rửa, hương dầu, đèn nến, năm thứ trái, cơm
canh trăm thứ những đồ ăn ngon lành nhứt trên đời, đựng vào trong bồn cúng
dường cho hàng Đại đức Tăng ở mười phương.
Đang trong ngày đó, tất cả Thánh chúng: hoặc
những người tu thiền nhập định ở trong núi, hoặc những vị chứng được bốn đạo
quả, hoặc những người đi kinh hành dưới cội cây hoặc những bực Thanh văn và
Duyên giác đủ
sáu pháp thần thông tự tại giáo hóa, hoặc là hàng Thập địa Bồ tát Đại nhơn quyền
hiện làm Tỳ kheo… đồng hội về ở trong Đại chúng đều đồng nhứt tâm lãnh thọ bát
cơm, đạo đức của hàng Thánh chúng hoàn toàn giới hạnh thanh tịnh đó rất là rộng
lớn.
Có người nào cúng dường cho hàng chúng Tăng Tự
Tứ dường ấy, thì cha mẹ cùng lục thân quyến thuộc trong đời
hiện tại của người đó được ra khỏi chốn khổ tam đồ, liền giải thoát hưởng thọ
những đồ mặc, món ăn tự nhiên.
Như cha mẹ hiện đang còn
sống, thời sống lâu trăm tuổi hưởng phước an vui. Còn cha mẹ trong bảy đời đã
qua, đề được sanh lên cõi trời, hóa sanh tự tại vào trong cõi trời sáng
đẹp".
Bấy giờ, đức Phật truyền chúng Tăng ở mười
phương, trước phải vì người thí chủ mong chờ chú nguyện, cầu cho cha mẹ bảy
đời, mà chuyên ý thiền định rồi sau mới thọ thực.
Lúc ban đầu thọ thực, trước hết để món ăn nơi
trước đức Phật, hay để trước tượng Phật trong chùa tháp, chúng Tăng đồng chú
nguyện xong, rồi mới tự thọ thực.
Lúc đó, ông Mục Liên Tỳ kheo và hàng đại Bồ tát
đều rất vui mừng, tiếng buồn rầu khóc lóc của ông Mục Liên liền nín lặng.
Chính trong ngày đó, bà mẹ của ông Mục Liên được
thoát khỏi một kiếp chịu khổ trong loài ngạ quỷ.
Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương TỤ TẬP,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn TRĂM VỊ trái cây NĂM MÀU
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng
Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.
Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng TỤ HỘI về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa
Người nào có sắm ra vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dưng.
Khi thọ-dụng nên an vật-thực
Trước PHẬT TIỀN hoặc tự THÁP TRUNG:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan
SỚ GIẢI :
Văn phần chánh tông chia
làm hai:
– Mục-liên buồn rầu
trình bày khổ nguy.
– Như Lai rộng bày lý
do.
Mục-liên buồn rầu trình
bày nguy khổ:
Mục-liên kêu gào buồn
rầu than khóc trở về bạch Phật, kể lại đầy đủ như vậy. Con vội vàng bày tỏ với
cha, thần vội vàng tỏ ý với vua, năng lực mình không thể, lý phải tìm đến Đức
Phật, đệ tử siêng quán bốn đế, đã chứng ba minh, ngược lại có thể che núi sông,
xoay chuyển mặt trời, mặt trăng, đâu lường trước mẹ chịu cực khổ! Mạng như treo
ngược, con hiếu hết sức chí thành, dùng hết thần biến mà cuối cùng vẫn không
thể dứt trừ ác báo, tạm cứu bụng đói. Cho nên kêu gào than khóc vội vàng trở
về, trình thưa đầy đủ, đau xót thành khẩn.
Như Lai nói rộng bày lý
do, có tám:
Như Lai rộng bày lý do.
Lại nương vào ba tạng, đại khái chia làm tám đoạn:
- Nói về tội lỗi của
người mẹ rất nặng.
- Nói đức con kém.
- Quở trách tà đạo không
có năng lực.
- Nói lên có khả năng.
- Hứa khả cứu vớt.
- Chỉ bày chánh pháp.
- Con hiếu lĩnh ngộ.
- Mẹ được lợi ích.
1. Nói tội lỗi người mẹ
rất nặng:
Phật dạy, mẹ ông gốc tội
sâu dày. Trong kinh nói: Thời Đức Phật Định Quang, Mục-liên tên La-bặc (Bốc) mẹ
tên Thanh-đề lúc La-bặc sắp đi dặn dò mẹ rằng: Nếu có khách đến mẹ nên chuẩn bị
đãi cơm đầy đủ. Khi La-bốc đi rồi, khách đến thì người mẹ không cung cấp, mà
nói dối là có cúng dường thức ăn. Con trở về hỏi: Hôm qua khách đến sao mẹ
không làm đầy đủ, mẹ nói: Con không thấy bữa tiệc đó ư! Từ đó về sau trong năm
trăm đời san tham nối nhau, cho nên nói rằng tội nặng sâu dày. Tội là nghiệp
của thân, miệng, căn là lòng san tham, nhiều đời nối tiếp nhau là sâu. Liền với
nhau vững chắc khó mở ra gọi là kết. Từ san tham khởi lên đều là tội nghiệp.
Chẳng phải chỉ vào thời ấy một lần nói dối. San tham là gốc khổ, việc làm là
nghiệp khổ, quỷ đói là quả khổ, là ba đường. Nếu y theo mười giới trọng, thì
san cũng là nghiệp, chỉ có tham là gốc, dấy lên tội nghiệp.
Hỏi: Trong
năm trăm đời san tham nên làm người làm quỷ phải không.
Đáp: Người
quỷ xen nhau, tạo chịu giúp nhau hoặc chỉ cho thân người không gọi là ác báo,
hoặc chỉ có thân quỷ không nên tạo nghiệp, hoặc chỉ là súc sinh đối với lý
không ngại. Nhưng thói san tham không dứt nên gọi là nối nhau.
Hỏi: Mục-liên
từ thời Phật Định Quang đến nay, mẹ sinh ra không phải một, vì sao chỉ cứu
Thanh-đề kia!
Đáp: Thanh-đề
và Mục-liên có nhân duyên sâu sắc, đời nay lại là mẹ của Mục-liên, chỉ cứu mẹ
đã sinh ra thân đời này chẳng phải cứu Thanh-đề đời xa xưa hay sao? Các luận
nói đều là chưa đạt.
2. Nói con đức kém:
Chẳng phải một mình năng
lực của ông mà làm gì được, mẹ ông tâm san tham, tham với tất cả, thời gian
trải qua nhiều đời, sự việc trải qua nhiều người, một mình ông làm sao cứu vớt
được!
3. Quở trách tà đạo
không có năng lực:
Ông tuy hiếu thuận nói
tiếng khắp cả trời đất, thiên thần, địa kỳ, ngoại đạo, tà ma, đạo sĩ, bốn Thiên
vương thần, cũng không thể làm thế nào được. Tam Tạng nói: Cho dù ông cảm đến
thiên linh ở cõi trên, động đến địa kỳ ở phương dưới, dù nhiếp tà ma hoạnh la
ngoại đạo, chung cả sáu hợp làm cùng một nhà, gom chung tám bộ làm thành chúng.
Nhập lại thần lực kia cũng không làm thế nào được! Đạo sĩ ngoại đạo là đạo sĩ
của ngoại đạo. Phân biệt với đạo sĩ của nội đạo. Phật giáo lúc đầu truyền đến
Trung quốc, gọi tăng là đạo sĩ. Bốn Thiên vương là Tỳ-sa môn… giữ gìn thế giới.
4. Nói lên có khả năng:
Phải nhờ đức oai thần
của chúng tăng trong mười phương mới được giải thoát. Tam tạng nói: một sợi tơ
không thể tạo tượng, phải nhờ nhiều sợi tơ. Một người không thể trừ nghiệp,
phải nhờ nhiều đức. Nay nói rõ văn kinh trước sau, do tà chánh, một nhiều đối
nhau mới có bốn trường hợp:
- Chánh nhưng không
nhiều, đây không thể cứu được. Trước một mình ông chẳng làm thế nào được.
- Nhiều nhưng chẳng
chánh cũng không thể cứu được, tức là trước thần kỳ, tà ma ngoại đạo….ở trước.
- Vừa nhiều vừa chánh:
Thì mới cứu được, tức là mười phương tăng.
- Không nhiều không
chánh, rõ ràng không thể, cho nên không có trong văn kinh.
5. Hứa khả cứu
vớt:
Nay Ta sẽ nói pháp cứu
giúp, khiến tất cả các tai nạn đều không còn lo lắng buồn khổ. Nay sẽ nói:
chính là lời đồng ý. Pháp cứu giúp: Là việc hứa khả. Khiến cho tất cả… là cái
nỏ ngàn cân, không riêng là chuột chù phát cơ, tôn quý của ba cõi, đâu chỉ giúp
cho mẹ ông lìa khổ?
6. Chỉ bày chánh pháp:
Trong chỉ bày chánh pháp
chia làm hai:
- Trước dạy pháp hiến
cúng của người con hiếu.
- Sau dạy nghi thọ cúng
của chúng tăng.
Trong phần đầu lại có
năm:
- Chọn lúc tốt.
- Phát tâm cao siêu.
- Bày cúng dường đúng
pháp.
- Khen ngợi ruộng tốt.
- Được lợi ích tốt đẹp.
Nghĩa là ngày tự tứ là
lúc tốt. Như mặt trăng mùa xuân, tâm hiếu là ý tốt. Như hạt giống tốt mới, trăm
món ăn năm thứ trái cây… là cúng dường đúng pháp. Như trâu cày giỏi lấy đó cúng
dường. Như có thể cày cấy, hiền Thánh là ruộng tốt. Như đất phì nhiêu, cha mẹ
bà con quyến thuộc còn và mất, cho đến bảy đời xa lìa khổ sinh lên cõi trời là
lợi ích tốt đẹp. Như ngàn chái muôn hộc, mùa thu gạt hái, mùa đông cất giữ. Ý
Văn kinh mạnh mẽ, đâu không phải như thế! Người trí thấy rõ, như chỉ tay trong
lòng bàn tay.
Trước chỉ dạy pháp cúng
dường của người con hiếu, có năm:
Chọn lúc tốt:
Phật bảo Mục-liên ngày
rằm tháng bảy là ngày chúng tăng trong mười phương tự tứ. Tiếng Phạm là
Tăng-già, Hán dịch là Chúng hòa hợp, nghĩa là nếu chúng mà không hòa, như những
người buôn bán, các quan lại và quân đội… đều không gọi là Tăng bảo. Nếu hòa mà
không đủ chúng, như hai người cùng một lòng, cũng chẳng phải Tăng bảo. Chúng mà
hòa hợp là nhân phước đức, mới gọi Tăng bảo. Hòa hợp ở đây có sáu thứ là thân
hòa đồng sự, ngữ hòa đồng mặc, ý hòa đồng nhẫn, giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng
giải, lợi hòa đồng quân. Nhà Nho nói tiểu nhân quân tử, hoặc là hòa hoặc là
đồng. Nay Tỳ-kheo Thích tử vừa hòa vừa đồng. Nay nói mười phương: Pháp không
hạn cuộc đâu ngăn cách thân sơ. Chúng Tăng: Tiếng Phạm đời Đường chú trọng nêu
lên sự khiêm tốn của người dịch.
Ngày rằm tháng bảy: an
cư ba tháng hạ xong thì tự tứ, tự tứ có ba ngày: đó là ngày mười bốn, mười lăm,
mười sáu, ở đây nêu lên ngày ở giữa. Đây thừa chữ tăng, bỏ đi thì câu lại
thiếu, cũng là chỗ sai của người dịch. Vì sao không nói khi cùng tự tứ! Tự tứ
là lỗi của mình tha hồ được người khác nêu ra, nghĩa là một hạ an cư, chín tuần
gia hạnh, không chứng bốn quả thì cũng được bốn thiền, Đức Phật lập ra giáo môn
bổn ý như thế, chúng Tăng thời chánh, tượng mạt pháp đều như vậy. Tuy sau năm
trăm năm, cũng có vị giữ giới tu phước.
Nhưng muốn thoát khỏi
biển khổ thì phải cẩn thận giữ gìn phao nổi, vẫn còn sợ hạn cuộc vào bến mê,
phải nhờ sự quán xét được mất ở bên ngoài. Dù không dứt hoặc chứng quả nhưng
vẫn hy vọng tội diệt phước sinh, vén y bày vai phải ở trong chúng bạch đại đức
trưởng lão, hoặc thấy lỗi của tôi, hoặc nghe tội của tôi, hoặc nghi tôi có
phạm, xin tha hồ nêu lên, thương xót nói cho con, con sẽ sám hối, như thế thì
thân tâm thanh tịnh, giống như lưu li, huống chi thiền định giải thoát đều
được, cúng dường người này thì lực dụng có thể biết là dường nào, đâu không thể
cứu được người còn kẻ mất, giúp đỡ hiện tại?
Cho nên Tam tạng nói:
Ngày thọ tuế (nhận tuổi hạ) của Tỳ-kheo là lúc đại chúng tự tứ, chúng Tăng phần
nhiều chứng được một trong bốn quả, cho nên có khả năng cứu độ trong bảy đời.
Phát ý cao siêu:
Sẽ vì cha mẹ bảy đời và
cha mẹ hiện tại đang trong cơn nguy khốn, sẽ vì là tâm năng cứu, cảnh sở cứu
của bảy đời về sau. Y theo cảnh mà nói về tâm nên nói là thắng. Về bảy đời cha
mẹ sở sinh không giống nho giáo chọn lấy tổ tông đời trước. Trong cơn nguy nan,
là chung cho kẻ còn người mất, mất thì địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, còn thì đau
ốm giam cầm, đều gọi nguy nan. Cha mẹ bảy đời mặc dù đã xa, đều là người đã
sinh ta tu đạo, đã nhờ nuôi dưỡng sao lại phụ công ơn sâu dày! Cho nên tam tạng
nói: Trời đất che chở, đã không sợ mệt nhọc, âm phủ và dương gian chìm đắm
trong biển khổ, lý hợp với đáp là không cùng.
Bày cúng dường đúng
pháp:
Sắm sửa đồ cúng dường
đúng pháp, cơm đủ (thức ăn) một trăm vị năm thứ trái cây các thứ đồ dùng tắm
gội dầu thơm, đèn đuốc, đồ nằm, ghế ngồi, tất cả đồ ngon ngọt để vào trong bồn
cúng dường đại đức chúng tăng trong mười phương. Cơm đủ trăm vị là nêu chung,
như người sắm bữa tiệc lớn mời khách đến chỉ nói ăn cơm, cho nên cơm là gồm
chung trăm vị. Trăm là số nhiều chẳng phải nhất định một trăm.
Năm thứ quả là:
Quả có hạt như táo,
hạnh, đào, mận…
Quả có da như dưa hấu,
lê, táo…
Quả có vỏ cứng như hồ
đào, thạch lựu..
Quả có vỏ cám như tô
nhậm…
Quả có sừng như củ ấu,
đậu…
Như trên đều dùng lưỡi
để nếm vị. Vật để múc nước là những đồ dùng để tắm gội và ghế ngồi, đồ nằm, đều
do thân cảm biết. Hương là mùi do mũi ngửi, dầu đèn đuốc… là vật đốt. Dùng mắt
thấy được, cũng có thể là thoa dầu thơm vào thân, cũng thuộc về thân, Tây Vực
như thế. Tất cả thứ ngon ngọt trên đời cũng thuộc về lưỡi. Từ trên đến đây
trong năm thứ ham muốn chỉ thiếu âm thanh. Từ ngữ trên đời là rõ ràng ý thú kia,
có hai thứ tận: là giàu sang thì sở hữu của suốt đời, có thì phải cầu, nghèo
hèn thì hết sức làm cho bằng được và phải tìm kiếm, biết được vật không nhất
định nhiều ít, chỉ làm hết lòng mình, cũng giống như kia thụ hưởng đối với việc
chí thành làm sáng tỏ đạo đức. Để trong bồn là người dịch kinh lầm, làm sao ghế
ngồi để trong bồn chẳng được!
Nên nói: để trong hội
cúng Vu-lan. Hai câu cúng dường là nói về hạnh. Theo bổn ý của kinh thì chỉ đem
vật thọ dụng được để cúng dường đại đức tăng, không cần vòng ngọc điêu khắc
chạm trổ, lụa là quý giá… cho nên Tam Tạng nói: ông phải sắm đủ bốn việc, như
vật đẹp tám thứ quý báu, trải qua mười phương mà vận dụng tư tưởng, lắng lòng
mà cúng dường.
Khen ngợi ruộng tốt:
Vào ngày này tất cả
Thánh chúng, hoặc đang thiền định trong núi, hoặc chứng được bốn đạo quả, hoặc
đang kinh hành dưới gốc cây, hoặc chứng được sáu thông tự tại, chỉ dạy giáo hóa
Thanh văn, Duyên giác, hoặc Bồ-tát Thập địa đại nhân quyền hiện Tỳ-kheo ở trong
đại chúng đều cùng nhau nhất tâm nhận cơm trong bát hòa-la, đầy đủ Thánh chúng
giới đức thanh tịnh. Hai câu đầu y theo lúc người khen ngợi mà nêu chung, hai
câu cuối dùng oai nghi khen ngợi người mà tổng kết.
Chặng giữa người pháp có
năm cặp đối nhau, nhưng văn không có thứ lớp nghĩa là xứ có trong núi, dưới cây
chứng có cặp bốn quả, sáu thông, hạnh có cặp lợi mình, lợi người, học có cặp
giới, định, người cặp có lớn, nhỏ, cũng gọi đối quyền, thật, lại nói chung
không ngoài người pháp. Nói đối ba học, ba thừa, từ ban đầu cho đến bốn quả
thiền định. Kế là từ hoặc ở dưới cho đến tự tại giáo hóa trí tuệ, đều giống như
ba câu tịnh giới ở dưới.
Ba thừa: Tức là Thanh
văn, Duyên giác, thập địa đại nhân, đều cùng nhất tâm là ý hòa hợp. Nghĩa là
khi thọ cúng đều cùng đem hết tâm hổ thẹn, ân nặng, tâm từ bi cứu giúp báo ân.
Người thì tuy địa vị có phàm Thánh, đức có tốt, kém, mà sự vận tâm thì một
không khác, nên nói là đồng. Nhận cơm bát hòa-la: Cơm trong bát, tiếng Phạm nói
Bát-đa-la, Hán dịch là Ứng lượng khí chữ hòa là sai. Thời nay chỉ gọi bát là
nói lược. Đề kinh nói bồn, tức là bát. Khi dịch tùy theo phong tục, tựa đề nói
là bồn, bồn và bát đều là đồ đựng. Tam Tạng giải thích đề dịch là “cứu khí”,
câu này trong kinh nói tự tứ đại đức nhận cúng Vu lan-bồn.
Được lợi ích tốt đẹp:
Nếu có cúng dường chúng
tăng tự tứ này cha mẹ bà con quyến thuộc đời này, được ra khỏi khổ ba đường (ba
đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) ứng thời giải thoát, cơm áo tự nhiên.
Hoặc cha mẹ hiện tại: Phước lạc trăm năm, hoặc cha mẹ bảy đời được sinh lên cõi
trời, hóa sinh tự tại lên tầng trời Thiên Hoa Quang. Vừa xướng kinh này có hai
ý nhỏ: một nửa đầu tiên: nhờ năng lực của bi nguyện mà xa lìa khổ, một nửa sau
là nhờ năng lực của từ nguyện mà được vui, trong vui có sự khác nhau giữa người
còn và mất.
Đầu tiên nói chúng Tăng tự
tứ này là chỉ năm cặp trước đã nói. Cha mẹ hiện tại là chỉ cho cha mẹ sinh ra
thân này, chẳng phải nói chưa mất gọi là đời nay, cho nên chỉ được lợi ích là
ra khỏi ba đường. Cha mẹ hiện tại chưa mất trở xuống tự có văn nói phước lạc
một trăm năm, không nên lại nêu tam tạng hiểu lầm, cho nên giải thích khác, rất
chẳng phải ý văn. Sáu thân là cha, mẹ, anh, em, chồng, vợ, quyến thuộc, tất cả
thân thích là kể cả trong ngoài. Giải thoát ra khỏi ba đường là nói chung xa
lìa khổ. Cơm áo tự nhiên là vượt qua ba đường, sinh lên cõi trời, cõi người,
cho nên thuộc văn cứu khổ, cũng có thể được vui thuộc đời sau. Hoặc cha mẹ trở
xuống là nói còn mất được vui, lời văn rất dễ hiểu. Thiên Hoa Quang là ánh sáng
nhiệm mầu trên trời, lược chỉ cho sự vui sướng.
Hai là
chỉ dạy nghi thức chúng Tăng thọ cúng dường.
Đức Phật bảo chúng Tăng
mười phương, trước tiên chú nguyện cho thí chủ, nguyện cha mẹ bảy đời, hành
thiền định ý rồi, sau đó nhận thọ thực. Khi chưa thọ thực, trước để trước Phật
trong chùa tháp, chúng Tăng chú nguyện xong thì tự mình thọ thực. Trong đây,
nửa trước là thanh tịnh ba nghiệp, nửa sau là đầy đủ Tam bảo, trước chú nguyện
là khẩu nghiệp, thiền định là ý nghiệp, thọ thực là thân nghiệp. Trong phần
sau, trước sau mới ăn, luật pháp như thế, tức là chữ thọ cũng thuộc pháp. Tháp:
là từ ngữ sai của quốc gia vùng biên giới, nói đúng phải là Tốt-đổ-ba, Hán dịch
là Cao hiển xứ, trong đây ý chung cho điện tháp, tháp để xá-lợi, điện thờ tượng
Phật.
7. Người con hiếu lãnh
ngộ:
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo
Mục-liên và chúng Đại Bồ-tát đều rất vui mừng, Mục-liên không còn buồn rầu khóc
lóc, tịnh nghiệp đã thành thì chắc chắn lìa khổ. Xét nhân nghiệm quả như tiếng
dội không sai, cho nên vui mà nín khóc. Như hình ngục ở đời dặn dò người có sức
mạnh, tiền của đã được thì làm cho tâm vui.
8. Mẹ hiền được lợi ích:
Lúc bấy giờ, mẹ ngài
Mục-liên, ngay trong ngày đó được thoát khổ quỷ đói trong một kiếp, Mục-liên
nghe kinh chính là được sự chỉ dạy cúng dường Vu-lan, hợp với lúc khác, ở đây
nói theo thứ lớp bèn là thoát quỷ đói, là người dịch kinh lược bỏ, ứng hợp với
chánh tông chỗ cuối cùng nhà kết tập ghi rằng: Lúc bấy giờ, Mục-liên nghe như
vậy, pháp này đã đến ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ cúng dường Vu-lan, cúng
dường chúng tăng tự tứ rồi, mẹ ngài Mục-liên ngay trong lúc ấy được thoát khổ
quỷ đói trong một kiếp, cho nên văn nghĩa đều hiển rõ. Cho nên Tam tạng nói:
Con hiếu đã dâng cúng vào buổi sáng này, người mẹ bèn dứt được ương lụy ngay
ngày ấy. Rộng lớn thay năng lực của bậc Thánh, nhanh chóng như thế. Quỷ đói kia
chịu khổ trải qua nhiều kiếp, đợi xem xét rồi sẽ trình bày.
PHẦN
LƯU THÔNG
Mục-Liên
phục bạch Phật ngôn : “Ðệ-tử sở sanh mẫu đắc mông Tam-Bảo công-đức chi lực,
chúng Tăng oai-thần chi lực cố.
Nhược
vị-lai thế, nhứt thiết Phật đệ-tử, diệc ưng phụng Vu-Lan-Bồn, cứu độ hiện-tại
phụ mẫu nãi chí thất thế phụ mẫu, khả vi nhĩ phủ ?”.
Phật
ngôn : Ðại thiện khoái vấn ! Ngã chánh dục thuyết nhữ kim phục vấn.
Thiện-nam
tử ! Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Quốc-vương, Thái-tử, Đại-thần, Tể-tướng,
Tam-công, bá quan, vạn dân, thứ nhơn hành từ-hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh
hiện-tại phụ mẫu, qúa-khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhựt, Phật
hoan-hỉ nhựt, Tăng Tự-tứ nhựt, dĩ bá vị phạn thực, an Vu-Lan-Bồn trung thí thập
phương Tự-tứ Tăng.
Nguyện
sử hiện tại phụ-mẫu thọ-mạng bá niên, vô bịnh, vô nhứt thiết khổ não chi hoạn,
nãi chí thất thế phụ-mẫu ly ngạ quỉ khổ, sanh Nhơn Thiên trung, phước lạc
vô-cực.
Thị
Phật đệ-tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu nãi chí
thất thế phụ-mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhựt, thường dĩ hiếu từ, ức sở
sanh phụ mẫu, vị tác Vu-Lan-Bồn thí Phật cập Tăng, dĩ báo Phụ mẫu trưởng dưỡng
từ ái chi ân.
Nhược
nhứt-thiết Phật đệ-tử ưng đương phụng trì thị pháp.
Thời,
Mục-Liên Tỳ-kheo, tứ bối đệ-tử hoan hỉ phụng hành.
PHẬT THUYẾT
VU LAN BỒN KINH
BÁO
PHỤ MẪU ÂN CHÚ
NAM-MÔ
MẬT LẬT ĐA ĐÁ BÀ DẠ TÁ HA.
(7
BIẾN)
VU LAN
KINH TÁN
|
THẦN THÔNG TÔN GIẢ, MÃN BÁT TRÌNH THÂN, THỰC TÀI NHẬP KHẨU HỎA VIÊM THÂN, HIỀU KHẤP MẠC NĂNG THÂN, THÁNH-GIÁO PHU TRẦN, HƯỞNG TIẾN TRƯỢNG TỪ-TÔN. |
|
NAM MÔ
ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ
(3
XƯNG)
Ông Mục Liên lại bạch với đức Phật rằng: "Sanh
mẫu của đệ tử nay do nhờ sức công đức của Tam Bảo và sức oai thần của
chúng Tăng mà được khỏi khổ.
Còn về đời vị lai, tất
cả đệ tử của Phật cũng phải phụng Bồn Vu Lan để cứu độ cha mẹ hiện tại nhẫn đến
cha mẹ trong bảy đời đã qua, làm như thế được chăng?".
Đức Phật nói: "Ông hỏi rất hay! Chính là Ta
vừa muốn nói, mà ông nay hỏi liền.
Nầy thiện nam tử! Những người tu hạnh hiếu từ
hoặc là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc là quốc vương, thái tử, quan đại thần, tể
tướng, tam công, trăm quan, muôn dân, kẻ thứ thấp hèn… đến ngày rằm tháng Bảy,
ngày đức Phật hoan hỷ, ngày chúng Tăng Tự tứ, đều nên trước vì cha mẹ hiện tại
và cha mẹ trong bảy đời đã qua, mà sắm cơm và đồ ăn trăm vị thơm ngon để vào
Bồn Vu Lan cúng dường cho chúng Tăng Tự tứ ở mười phương.
Cầu nguyện cho cha mẹ được sống lâu trăm tuổi,
không đau ốm, không tất cả hoạn nạn khổ não, nhẫn đến cầu nguyện cho cha mẹ
trong bảy đời đã qua thoát khỏi chốn khổ ngạ quỷ, sanh vào trong loài người,
hoặc cõi Trời hưởng phước vui vô cùng.
Là hàng đệ tử của Phật tu hạnh hiếu thuận, trong
mỗi niệm phải thường nhớ tưởng cha mẹ hiện tại, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời.
Mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy, do lòng hiếu thuận thường nhớ tưởng đến
cha mẹ đã sanh mình, vì cha mẹ sắm Bồn Vu Lan cúng dường đức Phật và chúng
Tăng, để đền đáp công ơn từ ái nuôi nấng của cha mẹ.
Nếu làm đệ tử của đức Phật, tất cả phải nên
phụng trì phương pháp báo hiếu nầy".
Bấy giờ, ông Đại Mục Kiền Liên Tỳ kheo và bốn
hàng đệ tử đều vui mừng tuân theo thực hành.
(KINH
VU LAN BỒN- HT. THÍCH TRÍ TỊNH DỊCH ÂM NGHĨA )
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỉ
Phải sắm sanh BÁ VỊ cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền
Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan
Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !
SỚ GIẢI :
Phần lưu thông có ba:
- Bày thỉnh.
- Khen thỉnh.
- Đáp thỉnh.
Bày thỉnh: Mục-liên
lại bạch Phật rằng mẹ con, nhờ công đức Tam bảo và năng lực oai thần của chúng
tăng, nếu đời vị lai tất cả đệ tử Phật thực hành pháp Vu-lan-bồn để cứu độ
cha mẹ, hiện tại cho đến cha mẹ bảy đời, làm như vậy được hay không? Khi nói
lời này cũng là sau khi sắm sửa đồ cúng dường, chẳng phải việc trong một
lúc, đến hang Tất-bát-la, mới bắt đầu tổng tập thành kinh. Mục-liên
thương mẹ ngài và người khác, như Đĩnh Khảo Thúc can ngăn Trang công…
Khen thỉnh: Phật
dạy: lành thay khéo hỏi, ta đang muốn nói, thì ông lại hỏi, câu đầu là nêu sự
khen ngợi, lành thay khéo hỏi là hợp với lòng ngài, hai câu sau giải thích lý
do, vì đang muốn nói liền gặp lời hỏi. Căn cơ cảm nhau, bí mật ứng nhau, cho
nên nói khéo, bản ý của Phật là muốn nói đạo hiếu rất lớn, cứu khổ việc quan
trọng, pháp Vu-lan cao quý, Đức Thế Tôn thấy duyên tốt căn cơ của đại
chúng đã chín muồi có thể giáo hóa.
Đáp thỉnh: (đáp
lại sự thỉnh mời): có năm.
1. Chỉ dạy khởi hạnh:
Này người thiện nam! Nếu
có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, quốc vương, Thái tử, đại thần, tể tướng tam công, các
quan, muôn dân, thứ nhân thực hành từ hiếu đều trước nên vì cha mẹ đời này, cha
mẹ bảy đời quá khứ, ngày rằm háng bảy ngày là Phật vui mừng, ngày chúng Tăng tự
tứ, để thức ăn trăm vị vào bồn Vu-lan để cúng dường chúng tăng tự tứ trong mười
phương, tuy phẩm vật sang hèn ngăn cách đạo xuất gia tại gia khác nhau nhưng
tự chẳng phải loài hóa sinh, loài thấp sinh, đều có cha có mẹ, loài
chim anh võ còn biết nhớ ân, huống chi đạo luân thường của con người mà không
cứu khổ! lợi hại của hiếu đã nói đầy đủ, đã biết đúng sai phải y theo chánh
đạo, cho nên nói rằng nên trước vì người đã sinh ra ta. Theo quy định thì dạy
phải làm, không làm thì trái với quy định. Vì thế cũng nên đối với chế giáo,
tức là vì phán giáo trước cũng thuộc về luật tạng.
Nhưng Đức Phật không
buồn vui, ngày này ngoài thị hiện vui vẻ là ứng với cơ duyên. Vì Đức Phật ra
đời vốn chỉ vì khuyên người tu hành, thấy người làm ác thì buồn, thấy người tu
thiện thì vui, nay các Tỳ-kheo chín tuần gia hạnh, ngày viên mãn lại càng chí
thành, trong tam thiên đại thiên thế giới đều cùng như thế xưng với bản ý của
Phật, tốt nhất là vui vẻ, ngày này sắm sửa cúng dường được phước rất lớn.
2. Chỉ dạy phát nguyện:
Nguyện cho cha mẹ hiện
tại sống lâu trăm năm không bệnh tật, không có lo lắng tất cả khổ não, cho đến
cha mẹ bảy đời lìa khổ ngạ quỷ, sinh lên cõi trời, phước lạc vô cùng, tu hành
phải nhờ hạnh môn, điều đạt được phải từ tâm nguyện, nguyện là sự ưa muốn của
tâm, muốn được người còn kẻ mất đều an ổn, người còn bảo đảm sinh mạng ở đời,
thường không bị bệnh tật khổ não. Người mất thần thức sinh lên cõi trời, lìa
hẳn đường tối tăm, hạnh nguyện giúp nhau, không có chỗ nào không được lợi ích.
3. Chỉ dạy thường làm:
Là đệ tử Phật tu hạnh
hiếu thuận: Trong mỗi niệm thường (nhớ) nghĩ đến cha mẹ, cho đến cha mẹ bảy
đời, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, thường vì từ hiếu nghĩ đến cha mẹ đã sinh
ra ta, thực hành Vu-lan bồn cúng Phật và chúng tăng, để báo đáp công ơn sinh
thành nuôi dạy thương mến của cha mẹ, là đệ tử Phật tu hạnh hiếu thuận rõ ràng
trái lại với người chẳng phải đệ tử Phật và bất hiếu, mặc ý không sắm đồ cúng
dường Vu-lan. Mỗi niệm thường nhớ nghĩ là không trước sau. Nuôi lớn là việc,
thương mến là tâm, cho nên trước khởi hạnh và phát tâm nguyện báo đáp công ơn
cha mẹ. Ngoài ra văn rất dễ hiểu. Tam tạng nói: cha mẹ kết ái mỗi niệm không
lìa tâm, con hiếu báo ân, hằng năm không dứt sự cúng dường.
4. Khuyên thọ trì:
Nếu tất cả các đệ tử
Phật, phải vâng hành đúng pháp này. Luận Trí Độ chép: sức tin là thọ, sức niệm
là trì, nay nói phụng tức là nghĩa của thọ, nên phải là cố gắng hai năng lực
này.
5. Vui mừng mà vâng làm:
Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo
Mục-liên và bốn chúng đệ tử, vui mừng vâng làm. Bốn bối là Tăng, ni, cư sĩ nam,
nữ, hoặc nói: người, trời, rồng, quỷ, nghi cả hai trường hợp này, nhưng hễ là
sinh linh thì đều phải nương dựa, cho nên ân cha mẹ bằng với trời đất, đây tuy
chí hiếu không được pháp môn ấy, nay được phương thuốc thần diệu, tin biết là
linh nghiệm thì chắc chắn trừ được nguy hiểm khó khăn trong bảy đời, báo đáp
công lao của cha mẹ, tự biết lòng mình có chỗ, vì thế vui mừng vâng làm theo.
VU LAN KINH SỚ
Thiền sư Khuê Phong đời
Đường, biết đạo hiếu phải dùng lời để chú kinh. Giải thích rộng hạnh chân hiếu
của Đạo Phật, khiến người học phải báo đáp công ơn cha mẹ, không rơi vào sự
hiểu biết khác, nhập vào thừa tối thượng của Phật, cho nên cao tăng nhiều đời,
vào ngày tự tứ chỉ dạy người xuất gia tại gia, thiết hội Vu-lan làm bè nổi độ
cha mẹ, thật là vâng theo lời sớ kinh đây, vui mừng cùng Từ Tự, Đông hiếu liêm
kết thành hoằng pháp hội tập, các tể quan cư sĩ tiếp tục khắc in.
Trong đề mục ba trăm
quyển, thích hợp lời sớ chưa khắc này, Lý Thái Bộc quyên tiền khắc bản. Tôi xem
xét tạng nam bắc, câu văn không giống, nay y theo quyết định bản khắc của Đại
sư Vân Thê, Đại sư chia khoa tiết mục ra phương pháp khác, nhưng Nam Bắc so
sánh nhiều chỗ sai lầm nên không thể ghi chép, chỉ vài lời bạt giúp người xem
xét chẳng những biết chỗ giống nhau và khác nhau của câu văn, mà còn nhờ ngón
tay thấy được mặt trăng, được ý nghĩa báo ân đại hiếu của Phật, đó là sở
nguyện.
Lời Bài bạt của Sa-môn
Kế Khánh ở Tuyết Sơn thuộc Xích Thủy, Quý Châu.
Lược
truyện về người soạn sớ.
Thiền Sư Khuê Phong Tông
Mật ở núi Chung Nam, người huyện Tây Sung, thuộc Quả Châu, họ Hà, sinh vào niên
hiệu Kiến Trung năm đầu đời Đường, tuổi nhỏ đã hiểu thông sách Nho, hai mươi
tuổi đã nguyên cứu sách Phật. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ hai Sư sắp đi thi thì
tình cờ đến chỗ Hòa thượng Đạo Viên ở Toại Châu đang giảng pháp, vui vẻ khế
hội, liền cầu khai mở, ngay năm đó thọ giới cụ túc, truyền khế tâm ấn. Lại tham
học khắp những vị có tài năng, để mở rộng tri kiến, soạn sớ sao các kinh như
kinh Viên Giác, kinh Hoa Nghiêm, kinh Niết-bàn, kinh Kim cương, luận Khởi Tín,
luận Duy Thức, kinh Vu-lan, Pháp giới quán, hạnh nguyện… và sưu tập thiền ngôn
của các tông. Soạn Thiền Nguyên Thuyên và trả lời thơ kệ nghị luận… tất cả hơn
trăm quyển, lưu truyền ở đời.
Trong niên hiệu Thái
Hòa, đời vua Văn Tông, vua ban chiếu vào cung ban cho y tím, vua thường hỏi
pháp yếu, kẻ sĩ kính mến, tìm mời về núi, đến ngày mồng sáu tháng giêng niên
hiệu Hội Xương năm đầu, Sư ngồi nhập diệt tại tháp viện Hưng Phước, bốn chúng
buồn rầu khóc lóc đau đớn, phụng toàn thân Khuê Phong trà-tỳ, được mấy mươi hạt
xá-lợi rất to và sáng, thờ trong hang đá sáu mươi hai tuổi đời, ba mươi bốn hạ
lạp, vua Tuyên Tông truy ban thụy hiệu Định Tuệ Thiền sư, tháp tên Thanh Liên,
Sư có soạn bài kệ:
Làm việc có nghĩa là tâm
tỉnh ngộ
Làm việc vô nghĩa, là
tâm cuồng loạn
Cuồng loạn theo tình
niệm
Khi mất bị nghiệp dẫn
Tỉnh ngộ không theo tình
Khi mất chuyển được
nghiệp.
CHUNG
Comments
Post a Comment