Giới, Định, Huệ
thoát Ta-bà
Tín, Nguyện, Hạnh
sanh Cực Lạc
PHẠM VÕNG KINH
BỒ TÁT TÂM ĐỊA PHẨM
I.- LÔ XÁ NA PHẬT
Bấy giờ, đức
Phật Lô-Xá-Na vì trong đại-chúng lược giảng “Tâm-Địa” như chừng đầu sợi
lông trong số trăm nghìn hằng-hà-sa bất-khả-thuyết pháp-môn.
Ngài kết “Tâm-Địa
đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật
thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
Cũng là pháp-môn mà tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học.
Ta đã từng
trăm A-Tăng-Kỳ kiếp tu-tập tâm-địa nầy, do đó ta được hiệu là Lô-Xá-Na. Chư Phật
! Các Ngài đem lời giảng của ta đây hầu mở con đường tâm-địa cho hết
thảy chúng-sanh”.
Liền đó, từ
trên Tòa Thiên-Quang Sư-Tử rực-rỡ nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, đức Phật Lô-Xá-Na
phóng ra những tia sáng. Trong tia sáng ấy có tiếng nói với chư
Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu : “Các Ngài thọ-trì phẩm Tâm-Địa
Pháp-Môn của ta đây, rồi tuần tự đem giảng lại cho nghìn trăm ức
Thích-Ca cùng tất cả chúng-sanh. Ai nấy đều nên thọ-trì đọc tụng và
nhất-tâm vâng làm”.
Sau khi
lãnh-thọ phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn, chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen
báu cùng nghìn trăm ức đức Thích-Ca đồng đứng dậy rời khỏi tòa
Sư-Tử. Toàn thân của các Ngài chiếu ra vô-số tia sáng. Trong mỗi tia
sáng ấy đều hóa hiện vô-lượng đức Phật, đồng thời tung
lên vô-lượng hoa đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng để cúng-dường đức Phật Lô-Xá-Na.
Cúng-dường xong, chư Phật từ tạ trở về.
Khi rời khỏi
thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, chư Phật vào chánh-định thể tánh hư-không
hoa-quang, mỗi Ngài trở lại chốn cũ, dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù.
Sau khi ra
khỏi chánh-định thể-tánh hư-không hoa-quang, đức Phật mới ngự trên
tòa Kim-Cương Thiên-Quang-Vương và Diệu-Quang-Đường mà giảng về Thập Thế-Giới-Hải.
Rồi đức
Phật giảng pháp Thập-Trụ nơi cung Đế-Thích, giảng pháp Thập-Hạnh
nơi cung trời Diệm-Ma, giảng pháp Thập Hồi-Hướng nơi cung trời Đâu-Xuất, giảng
pháp Thập Thiền-Định nơi cung trời Hóa-Lạc, giảng pháp Thập-Địa
nơi cung Trời Tha-Hóa, giảng pháp Thập Kim-Cương cõi Sơ-Thiền, giảng
pháp Thập-Nhẫn nơi cõi Nhị-Thiền, giảng pháp Thập-Nguyện nơi cõi
Tam-Thiền, và sau cùng ở Tứ-Thiền nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, đức
Phật giảng Phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn mà thuở trước đức Phật Lô-Xá-Na
đã giảng ở thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng.
Tất cả
nghìn trăm ức đức Thích-Ca ở nơi Thế-giới của mình đều giảng nói như thế cả. Như trong phẩm “Hiền-Kiếp” đã nói.
II.- THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Bấy giờ, đức Thích-Ca
Mâu-Ni, từ lúc sơ-khởi hiện thân nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, rồi
qua phương Đông đến tại cung của Thiên-Vương, diễn nói kinh Ma-Thọ-Hóa. Sau đó,
Ngài giáng-sanh nơi cõi Nam-Diêm-Phù-Đề tại nước Ca-Tỳ-La, Vua Bạch-Tịnh là
thân-phụ, và Hoàng-Hậu Ma-Gia là sinh mẫu, nhũ-danh của Ngài là Tất-Đạt-Đa.
Xuất
gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo hiệu Ngài là Thích-Ca
Mâu-Ni Phật.
Từ Bửu-Tòa
Kim-Cương Hoa-Quang nơi đạo-tràng Tịch-diệt nhẫn đến nơi cung của Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương, trong mười nơi ấy đức Phật tuần-tự ngự đến thuyết-pháp.
Lúc đó nhơn
khi xem bửu-tràng mành lưới của Đại-Phạm Thiên-Vương, đức Phật vì đại-chúng mà
giảng Kinh Phạm-Võng.
Ngài dạy rằng
: - Vô-lượng thế-giới dường như là lỗ lưới. Mỗi thế-giới đều khác nhau cả, khác
nhau đến số vô-lượng. Giáo-pháp của Phật cũng như vậy.
Đức Phật đã
tám nghìn lần đến thế-giới Ta-Bà nầy, ngự trên Bửu-Tòa Kim-Cương Hoa-Quang nhẫn
đến ngự nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, lược giảng Tâm-Địa Pháp-Môn cho cả
thảy đại-chúng trong những Pháp-Hội ấy.
Sau đó từ
cung của Thiên-Vương, đức Phật trở xuống ngự dưới cội Bồ-Đề nơi cõi
Diêm-Phù, vì tất cả chúng-sanh trên quả đất nầy, hạng người Phàm
ngu tối mà giảng một giới-pháp Kim-Cương Quang-Minh Bửu-Giới. Giới-Pháp nầy
là lời thường trì tụng của Phật-Lô-Xá-Na, khi Ngài mới phát Bồ-Đề
tâm trong thời kỳ tu nhân của Ngài. Giới pháp nầy cũng
chính là bổn-nguyên của tất cả Phật, là bổn-nguyên của tất cả Bồ-Tát và là chủng-tử
của Phật-Tánh.
Tất cả
chúng-sanh đều có Phật-Tánh. Tất cả ý-thức, sắc, tâm, là tình, là tâm đều vào
trong phạm-vi giới-pháp Phật-Tánh. Vì chắc-chắn thường có chánh-nhân,
nên chắc-chắn Pháp-Thân thường-trụ.
Mười
Ba-La-Đề-Mộc-Xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới-pháp nầy là chỗ
kính-trọng thọ-trì của tất cả chúng-sanh trong ba thuở.
Giờ đây, đức
Phật sẽ vì trong đại-chúng nầy mà giảng lại Giới-Phẩm Vô-Tận-Tạng, là Giới-Phẩm
của tất cả chúng-sanh, bổn-nguyên tự-tánh thanh-tịnh.
Nay ta là Lô-Xá-Na
Đương ngồi trên đài Liên-Hoa.
Trên nghìn cánh sen đơm vòng
Lại hiện ra nghìn Thích-Ca.
Mỗi cánh sen trăm ức cõi
Mỗi cõi một Phật Thích-Ca.
Đều ngồi dưới cội Bồ-Đề
Đồng thời thành chánh-giác đạo.
Nghìn trăm ức Phật như vậy
Lô-Xá-Na là bổn thân.
Nghìn trăm ức Phật Thích-Ca
Đều đem theo vi-trần chúng
Cùng nhau đến tại chỗ ta
Để nghe ta tụng Phật-Giới,
Ta liền giảng môn Cam-Lộ.
Bây giờ nghìn trăm ức Phật,
Trở về đạo-tràng của mình,
Đều ngồi nơi cội Bồ-Đề
Tụng mười trọng, bốn-mươi-tám
Giới của Bổn-Sư Xá-Na,
Giới như vừng nhựt-nguyệt sáng,
Cũng như chuỗi báu ngọc châu,
Chúng Bồ-Tát như vi-trần
Do giới này mà thành Phật,
Đây là đức Xá-Na tụng
Ta đây cũng tụng như vậy.
Các ông tân-học Bồ-tát
Phải cung kính thọ trì-giới !
Khi thọ trì giới nầy rồi
Nên truyền lại cho chúng-sanh,
Lắng nghe ta đang trì tụng
Pháp Ba-La-Đề-Mộc-Xoa
Là giới-tạng trong Phật-Pháp.
Đại-Chúng lòng nên tin chắc :
Các người là Phật sẽ thành,
Ta đây là Phật đã thành.
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới-phẩm đã tròn-vẹn
Tất cả những người có tâm
Đều nên nhiếp hộ Phật-Giới.
Chúng-sanh nào thọ Phật-Giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Đã đồng hàng bực Đại-Giác
Mới thật là con chư Phật.
Đại-Chúng đều nên cung-kính
Chí tâm nghe lời ta tụng.
III.- ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ TÁT GIỚI
Thuở ấy, đức
Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng chánh-giác
trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết Bồ-Tát Giới. Ngài dạy :
Hiếu thuận với cha
mẹ, Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng
gọi là cấm ngăn.
Liền đó, từ
nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ có đến
trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục,
mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí
tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.
Đức Phật nói
với các vị Bồ-Tát :
Nay ta cứ mỗi
nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm,
nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-Thú. Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa
cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng
quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới-Quang ấy chẳng
phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải
tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả.
Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên
chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử
lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương
Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận là chư
Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam,
dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay
loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của
Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.
IV.- MƯỜI GIỚI TRỌNG
1.- GIỚI
SÁT SANH
2.- GIỚI
TRỘM CƯỚP
3.- GIỚI
DÂM
4.- GIỚI
VỌNG
5.- GIỚI BÁN RƯỢU
6.- GIỚI
RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
7.- GIỚI
TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
8.- GIỚI
BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
9.- GIỚI
GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
10.-
GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Đức Phật bảo
các Phật-Tử rằng :
Có mười điều
giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều giới nầy, thời
người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Chính ta cũng tụng như vậy.
Tất cả Bồ-Tát
đã học, sẽ học và đương học!
Đã lược giảng
xong tướng-trạng của giới Bồ-Tát cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.
Đức Phật dạy
:
GIỚI SÁT SANH
Nếu Phật-Tử,
hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự
giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết, duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết.
Phàm tất cả
loài hữu-tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật-Tử, lẽ
ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, lập thế cứu giúp tất cả
chúng-sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI TRỘM CƯỚP
Nếu Phật-Tử
tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương-tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng
bùa chú trộm cướp : Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách-thức trộm cướp, nghiệp
trộm cướp.
Tất cả
tài-vật có chủ, dầu là của quỷ-thần hay kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một
ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi,
lòng hiếu-thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui,
mà trái lại trộm cướp tài-vật của người, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI DÂM
Nếu Phật-Tử,
tự mình dâm dục, bảo người dâm-dục, với tất cả phụ-nữ, các loài cái, loài
mái, cho đến Thiên-Nữ, Quỷ-nữ, Thần-nữ cùng phi-đạo mà hành dâm : Nhân dâm-dục, duyên dâm-dục, cách-thức
dâm-dục, nghiệp dâm-dục.
Là Phật-Tử,
đối với tất cả không được cố dâm-dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu-thuận, cứu-độ tất
cả những chúng-sanh, đem pháp thanh-tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không
có tâm từ-bi, làm cho mọi người sanh việc dâm-dục, không lựa
súc-sanh, cho đến hành-dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân,
Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI VỌNG
Nếu Phật-Tử,
mình nói vọng-ngữ, bảo người vọng-ngữ, phương-tiện vọng-ngữ : Nhân vọng-ngữ, duyên vọng-ngữ, cách-thức
vọng-ngữ, nghiệp vọng-ngữ.
Nhẫn đến
không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng-ngữ, tâm vọng-ngữ. Là
Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn chánh-ngữ, chánh-kiến, và cũng làm cho tất cả
chúng-sanh có chánh-ngữ, chánh-kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà-ngữ,
tà-kiến, tà-nghiệp, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát
Ba-La-Di tội”.
GIỚI BÁN RƯỢU
Nếu Phật-Tử,
tự mình bán rượu, bảo người bán rượu :
Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cách-thức bán rượu, nghiệp bán rượu,-Tất cả rượu không được
bán - Rượu là nhân-duyên sanh tội lỗi.
Là Phật-Tử,
lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh có trí-tuệ sáng-suốt, mà trái lại đem
sự mê say điên-dảo cho tất cả chúng-sanh, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Nếu Phật-Tử,
tự miệng rao nói tội lỗi, của Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại-gia, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni,
hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : Nhân rao nói tội lỗi, duyên
rao nói tội lỗi, cách-thức rao
nói tội-lỗi, nghiệp rao nói tội-lỗi.
Là Phật-Tử,
khi nghe những kẻ ác, ngoại-đạo cùng người nhị-thừa nói những điều
phi-pháp, trái Luật trong Phật-Pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ-bi
giáo-hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín-tâm lành đối với đại-thừa, mà trái
lại Phật-Tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật-Pháp,
Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Nếu Phật-Tử,
tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người : Nhân chê người, duyên chê người, cách-thức
chê người, nghiệp chê người.
Là Phật-Tử,
lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ-nhục cho tất cả chúng-sanh,
mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật-Tử tự phô dương
tài-đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê,
Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
Nếu Phật-Tử,
tự mình bỏn-sẻn, bảo người bỏn-sẻn : Nhân
bỏn-sẻn, duyên bỏn-sẻn, cách-thức bỏn-sẻn, nghiệp bỏn-sẻn.
Phật-Tử khi
thấy những người bần-cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần
dùng của họ. Mà Phật-Tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không
cho một mảy, có người đến cầu học giáo-pháp cũng chẳng nói một kệ một câu, lại
còn xua đuổi quở mắng, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
Nếu Phật-Tử,
tự mình giận, bảo người giận : Nhân
giận, duyên giận, Cách-thức giận, nghiệp giận.
Người Phật-Tử
lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh được những căn lành không gây gổ, thường
có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả
chúng-sanh, cho đến trong loài phi chúng-sanh, đem lời ác mạ-nhục,
còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho
đến nạn-nhân kia lấy lời nhỏ nhẹ xin lỗi, cầu sám-hối tạ-tội,
nhưng vẫn còn không hết giận, Phật-Tử này phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Nếu Phật-Tử,
tự mình hủy-báng Tam-Bảo, xúi người hủy-báng Tam-Bảo : Nhân hủy-báng, duyên hủy-báng,
cách-thức hủy-báng, nghiệp hủy-báng.
Phật-Tử nghe một lời hủy-báng Tam-Bảo của ngoại-đạo
và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống
là tự miệng mình hủy-báng ! Không có đức tin và lòng hiếu-thuận đối với
Tam-Bảo, lại còn giúp sức cho những kẻ ác, kẻ tà-kiến hủy-báng nữa, Phật-Tử này
phạm “Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.
V.- ĐỨC PHẬT KẾT RĂN
Nầy các Phật-Tử
! Trên đây là mười giới trọng của Bồ-Tát, các Phật-Tử cần nên học.
Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu một mảy
nhỏ như vi-trần, huống chi phạm đủ cả mười
giới ư !
Nếu có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ-Đề tâm, rồi cũng mất ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển-Luân-Vương, ngôi Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cũng mất những quả “Thập Phát Thú”, “Thập Trưởng-Dưỡng”, “Thập Kim-Cương”, “Thập-Địa”, tất cả diệu quả Phật-Tánh thường-trú đều mất, đọa trong ba ác-đạo, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh-tự của cha mẹ và Tam-Bảo. Vì thế nên không được phạm một giới nào cả. Tất cả Bồ-Tát các Ngài đã học, sẽ học và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. Trong phẩm “Bát Nạn Oai Nghi” có giảng rộng.
Sám hối có
ba cách:
1. Tác pháp sám hối: Người có tội đối truớc
chư Tăng, hoặc hai mươi vị, bốn vị, ba vị, một vị mà phát lồ sám hối, tùy theo
tội lớn nhỏ; Tác pháp sám hối chỉ trừ được tội khinh. Đối thú sám hối tức là Tác pháp sám hối.
2. Thủ tướng sám hối: Tức là sám hối cho
được thấy hảo tướng; Thủ tướng sám có thể
diệt tội thập trọng và tất cả tội khinh.
3. Vô sanh sám hối: Quán chơn lý thật tướng,
chứng ngộ vô sanh thời tội diệt. Vô sanh
sám hối có thể diệt tất cả tội, dầu là tội
thất nghịch.
Đây là tội
thất-nghịch :
1. Ác-tâm làm thân Phật chảy máu;
2. Hại bực Thánh-Nhân;
3. Giết cha;
4. Giết mẹ;
5. Giết Hòa-Thượng;
6. Giết A-Xà-Lê;
7. Phá Yết-Ma-Tăng, chuyển
Pháp-Luân-Tăng.
Nếu phạm
tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất
cả người đều được thọ giới.
Giảng
Sư
Hòa
thượng THÍCH TRÍ TỊNH
Chứng thực tướng, vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Vĩnh Gia Huyền Giác
CHỨNG ĐẠO CA
Giới
Luật Là Thọ Mạng Của Phật Pháp
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
(Bài ban từ trong Ðại giới đàn Thiện Hòa,
ngày 01-04-1993 tại Ðại Tòng Lâm, Bà Rịa Vũng Tàu)
Ðức Phật là một đấng đại
Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài như con một. Lòng
yêu thương chúng sinh của Ðức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm có nói, như mẹ thương
con, chỉ mong làm sao cho con mình được hết tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho
nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Ðức Phật không có
cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ đại Bi, ban vui cứu khổ cho tất cả
chúng sinh".
Vì vậy Ðức Phật ra đời,
cũng không ngoài mục đích ấy, vì thương chúng sinh như con một mà phải ban vui
cứu khổ, và trong kinh Pháp Hoa Ðức Phật nói rõ:
"Ðức Phật ra đời vì
muốn cho tất cả chúng sinh được Khai Phật tri kiến, Thị Phật tri kiến, Ngộ Phật
tri kiến và Nhập Phật tri kiến, được thành Phật như Phật không
khác".
Chỉ một hoài bão duy
nhất đó mà Ðức Phật mới ra đời và Ðức Phật cũng nói thập phương Chư Phật ra đời
cũng một hoài bão duy nhất đó mà thôi.
Do đó, tất cả Pháp của
phật nói ra cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh, những người có thể tin
được, có thể làm được cũng đến nơi mục đích là hết khổ được an vui cứu cánh
giải thoát, đầy đủ trí Huệ đại Từ Bi như Ðức Phật không khác. Cho nên bổn phận
hôm nay của chúng ta cũng như các vị Giới Sư, chỉ vì mục đích duy nhất là đem
Giáo Pháp của Phật truyền nói lại cho những người kế thừa mình để cho Chánh
Pháp của Phật mãi mãi lưu truyền ở thế gian không dứt.
Ðể chi? Ðể cho những
người hiện tại cũng như tất cả những người ở tương lai và rộng đến tất cả mọi
loài chúng sanh đều được nhuần nơi chánh Pháp (ban vui cứu khổ) để hết khổ và
được an vui. Như Ðức Phật dạy:
"Sau khi Phật diệt
độ, chúng ta phải coi Giới luật là bậc Thầy sáng suốt, cũng như Phật còn tại
thế không khác".
Bởi vậy, sau Phật diệt
độ, nhất là trong thời kỳ mạt Pháp nầy, nếu chúng ta có một tâm giữ gìn được
Chánh Pháp của Ðức Như Lai để làm lợi ích cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh
đều được an vui hết khổ, thì trước hết phải giữ gìn giới luật của Ðức Phật còn
tồn tại ở thế gian, giới luật có tồn tại ở thế gian thì mới có thể làm
nền móng cho Chánh Pháp được tồn tại.
Muốn giữ gìn giới luật được
tồn tại tại thế gian thì phải thực hành nơi giới luật của Phật chế ra lúc Phật
còn tại thế.
Do đó, mà được truyền
nối đến ngày nay. Thế nên ở nơi chúng ta là người đã thọ giới và thực hành theo
giới, mà phải đem Giới luật ấy mà ban bố lại cho những người hậu lai để có sự
kế thừa liên tục. Vì vậy, nên ta phải làm Giới Sư, phải truyền giới để cho giới
đó được giới, học giới và giữ giới.
Các vị giới tử đó khi đã
có giới rồi thì cũng sẽ truyền lại cho những người khác cũng được thọ giới, học
giới và giữ giới. Ðược như vậy thì giới Pháp của Ðức Phật mới có thể tồn tại,
mà Giới Pháp tồn tại thì Phật Pháp mới còn, đây là lời nói ở trong Kinh như
vậy.
Vì sự truyền giới nó rất
quan trọng nên tôi xin nhắc nhở cho toàn thể quý vị Giới Sư rằng: Dầu sao đi
nữa cũng không nêu ở hoàn cảnh hay là bất cứ những điều chi đó. Mà nó có thể
chi phối được mình không làm đúng theo giới luật, nhưng về phần truyền giới mình
phải làm sao, nếu không được trọn vẹn hết thì cũng có một phần lớn để hoàn
thành những điều ở trong luật chỉ dạy truyền giới phải như thế nào. Vì
sự truyền giới có đúng Pháp thì người thọ giới mới được đắc giới.
Như vậy, giới luật đầu
tiên là ở nơi người thọ giới, mà người thọ giới chưa được đắc giới, thì về sau
làm sao có được giới thể trang nghiêm có giới đức thanh tịnh được, do đó sự
truyền giới là mối đầu tiên hết, nên phải làm sao dầu không thể được hoàn toàn
viên mãn, nhưng cũng phải làm sao để hoàn thành những điều quan trọng nhất mà
trong giới luật đã nêu ra cho những người có bổn phận truyền giới.
Tôi cũng cầu nguyện cho
toàn thể giới sư lục căn thanh tịnh, tam nghiệp thuần hòa, giới thể trang
nghiêm để đem giáo Pháp của Phật ban bố cho hàng giới tử. Và sau đây tôi cũng
có ít lời để khuyên nhắc các vị giới tử Tăng Ni cầu giới.
Tôi xin mạn phép được
gọi quý vị bằng huynh đệ, bởi vì dù sao chúng ta
cũng đều là con của Ðức Phật, đã là con của Phật thì đồng một cha, tức là anh
em với nhau cả. Quý huynh đệ ngày hôm nay, cũng như tôi trước đây, hơn nửa thế
kỷ, thì cũng khép nép cần cầu và khát muốn được thọ giới. Lòng của tôi ngày hôm
trước, và những ngày sau đó cũng chính là cái lòng của quý huynh đệ thọ giới
ngày hôm nay.
Tôi thông cảm ở nơi tâm
nguyện đó của quý huynh đệ, vì rằng tôi đã trải
qua và cũng tấm lòng của tôi từ đó được ôm ấp cho tới ngày hôm nay. Vì sao? Vì
khi mà cầu giới như vậy, thì thấy lòng mình có phần nào gọi là thiết tha, thanh
tịnh đối với giới luật. Vì rằng do sự mong muốn do sự cần cầu đó mà nó có sự
khao khát và trân trọng. Quý huynh đệ nên biết rằng: Cái sơ tâm tức là bỏ
phát tâm nó rất là khó mà cũng rất quí, nhưng cũng có thể sau khi được
rồi, thì cái tâm phát khởi lúc ban đầu ấy lần lần nó bị phai nhạt đi.
Cho nên vừa rồi tôi nói
lòng khát ngưỡng giới luật, cũng như tấm lòng quí trọng nơi giới luật lần đầu
tiên mình có được, tôi vẫn tâm tâm niệm niệm ôm ấp cho đến trọn đời.
Thật ra mà nói cũng có
lúc nó phai nhạt một phần nào, nhưng nhờ sự nghĩ đến bổn phận của mình, nghĩ
đến tương lai làm sao mình được siêu phàm nhập thánh cầu mong cho được giải
thoát, nhờ ở nơi tâm nguyện đó mà nó nếu kéo lại để cho lòng tôn kính giới
luật, quí báo giới luật như lúc ban đầu.
Do đó, tôi khuyên nhắc
tất cả quí huynh đệ mà cầu giới hôm nay nên ghi nhớ hẳn những giờ phút thiêng
liêng mà mình cầu giới. Tâm trạng chí nguyện như thế nào. Phải nhớ rõ
ngày tháng năm, cái giờ cho đến cái phút mà mình được thọ giới, để từ đó mình
ôm chặt vào lòng giữ gìn, trân trọng quí báu mãi mãi về sau trọn đời của mình.
Ðiều đó tôi nhắc nhở ở
nơi quí huynh đệ những ngày sắp tới đây, sau khi thọ giới và được đắc giới rồi;
trở về nơi trụ xứ của mình thì lần lần, quí huynh đệ mới thấy rằng sự quí trọng
ôm ấp ở nơi giới mình đã thọ, đã được đó rất là khó giữ trọn vẹn lắm,
khó giữ bền lắm, chớ không phải là chuyện dể đâu. Phải có chí nguyện cho kiên
cường, phải có một tâm hành luôn luôn được kiểm soát thì mới có thể trọn vẹn
đối với sự giữ gìn ôm ấp. Như quý huynh đệ cũng biết Phật
dạy:
"Ở trong lục đạo
chúng sinh thì chỉ có thân người, làm người mới được xuất gia, mới được thọ
giới làm Tăng hay Ni".
Giờ đây quý huynh đệ
được làm thân người và cũng có duyên tốt sắp tới đây được thọ giới mà được đắc
giới, được giới nhân chánh quả Ðức Như Lai, đó là do vì ở nhiều đời trước trồng
thiện căn sâu dày, cho nên ngày hôm nay mới được như vậy. Trước hết quý huynh
đệ phải trân trọng với căn lành mà mình đã dày công vun trồng từ nhiều đời
trước đó, để cho mỗi ngày được thêm lớn và khỏi phải có sự tốn hao. Như trong
luật Ðức Phật có nói:
Tại sao người thọ giới
được đắc giới?
Vì rằng, người thọ giới
ở trước giới. Sự truyền giới mà lãnh giới, nhờ có tâm kính trọng hết
lòng nên đắc giới, phải nhớ điều đó. Do vậy,
giờ phút này, quý huynh đệ luôn luôn giữ đến cái giới chỉ có Ðức Phật ra đời
mới có, cái giới mà mình sắp thọ đó, không phải là chuyện dễ có đâu.
Mình đã có rồi thì cho
là dễ, nếu như không có Phật ra đời thì không có cái giới đó ở thế gian. Vì
sao? Vì chính nơi giới đó mới có thể làm nền tảng, làm chỗ đứng đầu tiên để
bước lên hàng Hiền Thánh. Bởi vì các bậc Hiền Thánh do chánh định, chánh huệ
nên mới thành bậc Hiền Thánh được.
Nếu không có giới thì
chánh định không do đâu mà sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ từ đâu
mà phát sanh, khi chánh định không có thì chánh huệ từ đâu mà phát sanh. Cho
nên nói rằng, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ, trong
lời phát nguyện vừa rồi của quý vị tôi cũng nghe nhắc đến điều đó.
Như vậy thì quý vị cũng
đã biết được phần nào về sự quan trọng của giới định rồi. Giới là bậc đầu tiên,
không giới thì lấy đâu để có định huệ bước lên bậc Hiền Thánh. Do có sự suy
nghĩ như vậy nếu có cái lòng hết sức quan trọng quí báu vô cùng, vì sự
tôn trọng cần cầu ấy mà khi quí vị ở trước giới Sư để thọ giới quí vị sẽ đắc
giới, đó là điều ở trong giới luật có nói.
Nguyên nhân được đắc
giới là do cái lòng hết sức kính trọng, thiếu lòng kính trọng ấy thì không thể
đắc giới được, đó là mục đích của tôi hôm nay muốn nhắc nhở quý huynh đệ. Và
tôi cũng xin nhắc tiếp theo là sau khi thọ giới rồi thì phải cố gắng học giới
cho rành, nhờ có học hiểu ghi nhớ nên mới có thể hành trì đúng với giới luật
được.
Quí vị đã có sự học
hiểu, hành trì đúng như giới luật thì quí vị đã nắm được bước đầu tiên để bước
lên bậc Hiền Thánh giải thoát hết khổ rồi, và cũng chính nơi giới luật nó làm
nấc thang đầu tiên cho quí vị sẽ đến nơi hoài bảo duy nhất của Ðức Phật ra đời
là muốn cho tất cả mọi người, tất cả chúng sinh khai thị ngộ, nhập Phật tri
kiến để thành Phật như Phật không khác.
Vậy tôi cầu mong cho tất
cả quí huynh đệ từ giờ phút này, thân tâm được thanh tịnh, nghiệp
chướng tiêu trừ, thiện căng tăng trưởng để quí vị khi thọ giới thì được đắc
giới. Và tôi cũng xin gởi lời cầu chúc đến cho toàn thể chư Tôn Ðức quí vị
hiện diện hôm nay cũng như toàn thể mọi người, tất cả chúng sinh đều
được an lành, đều được an vui, đều được giải thoát.
Giới Luật Là Thọ Mạng Của Phật Pháp
HẾT
VI.- 48 ĐIỀU GIỚI KHINH
Đức Phật bảo
các vị Bồ-Tát rằng :
Đã giảng mười
giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh.
1.- GIỚI
KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
Nếu Phật-Tử,
lúc sắp lãnh ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển Luân-Vương, hay sắp lãnh chức Quan,
trước nên thọ giới Bồ-Tát. Như thế tất cả Quỷ-thần cứu hộ thân
Vua và thân các Quan, Chư Phật đều hoan hỷ.
Đã đắc
giới rồi, Phật-Tử nên có lòng hiếu thuận và cung kính. Nếu
thấy có bực Thượng-Tọa, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê, những bực Đại-Đức, đồng học,
đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy
chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như Pháp cúng dường, hoặc tự bán
thân cho đến Quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung
cấp các bực ấy. Nếu Phật-Tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận,
ngu-si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y
theo Pháp mà cúng dường, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
2.- GIỚI UỐNG
RƯỢU
Nếu Phật-Tử
cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô-lượng tội lỗi.
Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống sẽ mang ác báo : Năm trăm đời
không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng tự bảo người và tất cả chúng-sanh uống
rượu, huống là tự mình uống ! Tất cả các thứ rượu, Phật-Tử không được uống. Nếu
mình cố uống cùng bảo người uống, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
3.- GIỚI ĂN
THỊT
Nếu Phật-Tử
cố ăn thịt, tất cả thịt của mọi loài chúng-sanh đều không được ăn. Luận về
người ăn thịt thời mất lòng đại từ-bi, dứt giống
Phâät-Tánh, tất cả chúng-sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt măéc
vô-lượng tội lỗi. Vì thế nên tất cả Phật-Tử không được ăn tâát cả thứ thịt
của mọi loài chúng-sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
4.- GIỚI ĂN
NGŨ TÂN
Nếu Phật-Tử,
chẳng được ăn loại Ngũ tân loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ tân này gia
vào trong tâát cả các thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
5.- GIỚI
KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
Nếu Phật-Tử
khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá giới,
hay phạm thất nghịch, bát-nạn, tất cả tội phạm giới v. v. .
. , phải khuyên bảo người ấy sám-hối. Nếu Phật-Tử chẳng khuyên bảo người phạm
tôäi sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chúng Bồ-Tát, đồng thuyết
giới, mà không cử tôäi người ấy, không nhắc người ấy sám-hối, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
6.- GIỚI
KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
Nếu Phật-Tử,
thấy có vị Pháp-Sư Đại-thừa hay những bực đồng học, đồng kiến, đồng hạnh Đại-thừa,
từ trăm dặm nghìn dặm đến nơi Tăng phường, nhà cửa, thành ấp thời liền đứng
dậy rước vào, đưa đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng
duờng, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần
dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho Pháp-Sư. Môãi ngày : Sáng,
trưa và chiều, thường thỉnh Pháp-Sư thuyết Pháp và đảnh lễ.
Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh Pháp không mỏi
nhàm, chỉ trọng Pháp chứ không kể thân. Nếu Phật-Tử không như thế thời phạm “Khinh cấu tội”.
7.- GIỚI
KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
Nếu Phật-Tử,
hàng Tân-học Bồ-Tát, phàm nơi nào, chốn nào có giảng Kinh, Luật, phải mang
Kinh, Luật đến chỗ Pháp-Sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng,
trong vườn cây, chùa, nhà v.v. .. Tất cả chỗ
thuyết
pháp đều đến nghe học. Nếu Phật-Tử không đến nơi ấy để nghe Pháp cùng
thưa hỏi, thời phạm “Khinh cấu tội”.
8.- GIỚI CÓ
TÂM TRÁI BỎ ĐẠI THỪA
Nếu Phật-Tử,
có quan niệm trái bỏ Kinh Luâät Đại-thừa thường trụ, cho rằng
không phải của Phật nói mà đi thọ trì Kinh Luật tà kiến và
tấc cả cấm giới của Thanh-văn Nhị-thừa cùng ngoại đạo ác
kiến, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
9.- GIỚI
KHÔNG KHÁN BỊNH
Nếu Phật-Tử,
thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong
tám phước điền, khán bệnh là Phước điền thứ nhất . Nếu như cha mẹ, sư Tăng
cùng đệ-tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều nên săn sóc cho được
lành mạnh, Phật-tử lại vì lòng hờn giận không chăm nuôi, nhẫn đến thâáy trong
tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội, đường xá có người tật bệnh mà
không lo cứu tế, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
10.- GIỚI
CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
Nếu Phật-Tử
không đặng cất chứa những binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, giáo, v.v...
cùng những đồ sát sanh như chài, lưới, rập, bẫy v.v... Là Phâät-Tử, dầu cho
đến cha mẹ bị người giết, còn không báo thù, huống lại đi giết tất
cả chúng-sanh ! Không được cất chứa những khí cụ sát sanh ! Nếu cố cất
chứa, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng phụng trì. Trong sáu phẩm sau có giảng rộng.
11.- GIỚI
ĐI SỨ
Nếu Phật-Tử,
chẳng đặng vì quyền lợi và ác tâm mà đi thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội
quân trận, đem binh đánh nhau làm cho vô-lượng chúng-sanh bị giết hại. Là Phật-Tử
còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố làm môi giới chiến
tranh. Nếu cố làm, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
12.- GIỚI
BUÔN BÁN PHI PHÁP
Nếu Phật-Tử
cố bán người lành, tôi trai, tớ gái, lục-súc, buôn bán quan tài, ván cây, đồ đựng
thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo người. Nếu
cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
13.- GIỚI HỦY
BÁNG
Nếu Phật-Tử,
vì ác tâm, nơi người tôát, người lành, Pháp-sư, Sư-tăng, hoặc Quốc-vương
và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười
giới trọng. Với cha, mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ-bi,
lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa
nơi ác đạo, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
14.- GIỚI
PHÓNG HỎA
Nếu Phật-Tử,
vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nội. Từ tháng tư đến tháng chín phóng
hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người
và cung điện tài vật của Quỷ-thần. Tất cả chỗ có sanh vật không được cố thiêu đốt.
Nếu cố thiêu đốt, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
15.- GIỚI DẠY
GIÁO LÝ NGOÀI ĐẠI THỪA
Nếu Phật-Tử,
từ Phật đệ-tử, lục thân, tất cả thiện tri-thức, đến ngoại-đạo ác
nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì Kinh Luật Đại-thừa. Nên giảng cho
hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ-Đề Tâm, Thập-Phát-Thu, Thập Trưởng-Dưỡng
Tâm, Thập Kim-Cương Tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu Pháp dụng tuần
thứ của mỗi món. Mà Phật-tử lại vì ác tâm, sân tâm đem Kinh Luật
của Thanh-Văn Nhị-thừa, cùng các bộ Luận của ngoại-đạo tà kiến để dạy
ngang cho người, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
16.- GIỚI
VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO
Nếu Phật-Tử,
phải tận-tâm học Kinh-Luật oai-nghi đại-thừa. Thông hiểu nghĩa-lý,
khi thấy có hàng tân-học Bồ-Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học Kinh Luật
Đại-thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ-hạnh, hoặc đốt
thân, đốt cánh tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón
tay cúng dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ-Tát xuất-gia.
Nhẫn đến xả thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố-thí cho tất cả những cọp,
sói, sư-tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo
căn-cơ của mỗi người mà giảng chánh-pháp cho hàng tân-học ấy được mở thông
tâm-ý. Nếu Phật-tử vì quyền-lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng Kinh-Luật một
cách điên-đảo, văn-tự lộn-xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết-pháp có tánh
cách hủy-báng Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
17.- GIỚI CẬY
THẾ LỰC QUYÊN GÓP
Nếu Phật-Tử,
tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi-dưỡng, danh-dự mà thân-cận Quốc-Vương,
Hoàng-Tử cùng các Quan, nương quyền cậy thế bức người để lấy tiền
của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy
gọi là ác-cầu, đa-cầu, đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, Phật-Tử này phạm
“Khinh cấu tội”.
18.- GIỚI
KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI
Nếu Phật-Tử,
phải học mười hai phần Kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời, nghiêm-trì Bồ-Tát
giới, hiểu rõ nghĩa lý-tánh Phật-Tánh của giới. Nếu Phật-Tử không hiểu
một kệ một câu cùng nhân-duyên của Giới-Luật, mà dối rằng thông hiểu, đó
chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một Pháp, không
biết một Luật mà lại đi làm Thầy truyền giới cho người. Phật-Tử này phạm
“Khinh cấu tội”.
19.- GIỚI LƯỠNG
THIỆT
Nếu Phật-Tử,
vì ác tâm, thấy Thầy Tỳ-Kheo trì-giới tay bưng lư-hương, tu hạnh Bồ-Tát, tự
đi đâm thọc hai đầu, cho sanh sự bất hòa khinh-khi người hiền, tạo
nhiều tội ác. Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
20.- GIỚI
KHÔNG PHÓNG SANH
Nếu Phật-Tử,
vì tâm từ-bi mà làm việc phóng-sanh. Tất cả nam-tử là cha ta, tất cả nữ-nhân là
mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác-sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng-sanh
trong lục-đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt, thời
chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất
tứ-đại đều là bổn-thân bổn-thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng
sanh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sanh,
nên tìm cách cứu-hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường
đem giới Bồ-Tát giảng dạy để cứu-độ chúng-sanh.
Nếu
ngày cha mẹ hay anh chị em chết, nên thỉnh Pháp-Sư giảng
Kinh-Luật Bồ-Tát giới. Người chết nhờ phước-đức ấy, hoặc được vãng-sanh Tịnh-Độ
ra mắt chư Phật, hay thác-sanh trong cõi Trời, cõi Người. Nếu
không làm các điều trên đây, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế cần nên học tập
kính-trọng phụng-trì.
Như
trong phẩm “Diệt tội” giảng rõ mỗi giới.
21.- GIỚI
ĐEM SÂN BÁO SÂN ĐEM ĐÁNH TRẢ ĐÁNH
Nếu Phật-Tử,
không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh em
hay lục-thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị người
thí chết cũng chẳng được báo-thù. Giết sanh mạng để báo thù sanh mạng,
đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tôi tớ, rồi
đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô
lượng tội, nhất là khẩu-nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu
xuất-gia Bồ-Tát không có lòng từ-bi cố báo-thù, nhẫn đến cố báo
thù cho trong hàng lục-thân, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
22.- GIỚI KIÊU
MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Nếu Phật-Tử,
mới xuất-gia chưa thông hiểu Kinh-Luật, mà tự ỷ mình là trí-thức thông-minh,
hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là giòng sang, con nhà quyền
quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to giàu lớn v.v.. rồi sanh lòng kiêu-mạn
mà không chịu học hỏi Kinh-Luật với các vị Pháp-Sư học đạo trước
mình. Vị Pháp-Sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo
nàn, hèn-hạ hay có tật nguyền nhưng lại thiệt có đức hạnh cùng thông
hiểu nhiều Kinh Luật. Hàng tân-học Bồ-Tát không được nhìn vào dòng giống vị
Pháp-Sư mà không chịu đến học đạo-lý đại-thừa với vị ấy, Phật-Tử nếu như vậy thời
phạm “Khinh cấu tội”.
23.- GIỚI
KHINH NGẠO KHÔNG TẬN TÂM DẠY
Nếu Phật-Tử,
sau khi Phật nhập-diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-Tát, thời đối
trước tượng Phật cùng tượng Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở
trước tượng Phật và tượng Bồ-Tát sám-hối trong bảy ngày, hễ được thấy hảo
tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời phải sám-hối
14 ngày, 21 ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo-tướng. Khi được thấy hảo-tướng
rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ-Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo
tướng thời dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không gọi
là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp-Sư đã thọ Bồ-Tát mà thọ giới, thời
không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị Pháp-Sư ấy là chư sự truyền
giới cho nhau, nên không cần hảo tướng. Hễ đối trước vị Pháp-Sư ấy
mà thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc
giới. Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà tìm không được vị Pháp-Sư truyền-giới,
thời Phật-Tử đuọc phép đối trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tự nguyện thọ
giới Bồ-Tát, nhưng cần phải thấy hảo tướng.
Nếu các vị
Pháp-Sư ỷ mình thông Kinh-Luật cùng giới-pháp đại-thừa, kết-giao với các
nhà quyền quý, khi có hàng tân-học Bồ-Tát đến cầu học nghĩa Kinh, Luật,
lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy phạm
“Khinh cấu tội”.
24.- GIỚI
KHÔNG TẬP HỌC ĐẠI THỪA
Nếu Phật-Tử,
có Kinh Luật Đại-Thừa-Pháp chánh-kiến, chánh-tánh, chánh-pháp-thân của Phật, mà
không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những sách luật
tà-kiến của nhị-thừa, ngoại-đạo, thế-tục, đó mà làm mất giống Phật, là
nhân-duyên chướng-đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-Tát. Nếu cố làm
như vậy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
25.- GIỚI
TRI CHÚNG VỤNG VỀ
Nếu Phật-Tử,
sau khi Phật nhập-diệt làm Pháp-Sư, Giảng-Sư, Luật-Sư, Thiền-Sư Thủ-Tọa, Tri-Sự,
Tri-Khách, phải có lòng từ-bi khéo hòa-giải trong chúng, khéo giữ-gìn tài vật của
Tam-Bảo, chớ dùng vô-độ như của riêng mình, mà trở lại khuấy
chúng gây gổ, kình-chống, lung lòng xài của Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
26.- GIỚI
RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
Nếu Phật-Tử
ở trước trong Tăng-phường, lúc sau thấy có khách Bồ-Tát Tỳ-Kheo đến hoặc nơi
thành ấp nhà cửa của Tăng hay của Vua, nhẫn đến chỗ kiết-hạ an-cư cùng trong đại-hội
... chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho những
đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế v.v... Nếu tự mình không
có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung
cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí-chủ đến thỉnh chúng
Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri-Sự phải theo thứ-tự phái
Khách Tăng đi thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà
không phái Khách Tăng đi, thời vị Tri-Sự mắc vô-lượng tội, không đáng là hàng
Sa-Môn không phải dòng Thích-Tử, nào khác gì loài súc-sanh. Phật-Tử nầy phạm “Khinh cấu tội”.
27.- GIỚI
THỌ BIỆT THỈNH
Nếu Phật-Tử,
tất cả chẳng được nhận của cúng-dường dành riêng về mình. Của cúng-dường nầy
thuộc thập-phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập-phương Tăng đem về
phần mình. Và của vật trong tám phước-điền : Chư Phật, Thánh-Nhân, các Sư-Tăng,
cha, mẹ và người bịnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
28.- GIỚI BIỆT
THỈNH TĂNG
Nếu Phật-Tử
có những hàng Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại gia và tất cả đàn-việt lúc
muốn thỉnh Tăng để cúng-dường cầu-nguyện, nên vào Tăng-phường thưa với vị Tri-Sự.
Vị Tri-Sự bảo rằng : Theo thứ-tự mà thỉnh thời được Thập-Phương Hiền-Thánh-Tăng.
Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A-La-Hán Bồ-Tát Tăng vẫn không bằng theo
thứ-tự thỉnh một phàm-phu Tăng. Trong giáo-pháp của bảy đức Phật đều
không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của ngoại-đạo,
là không thuận với hiếu-đạo. Nếu Phật-Tử cố thỉnh riêng thời phạm “Khinh cấu tội”.
29.- GIỚI TÀ
MẠNG NUÔI SỐNG
Nếu Phật-Tử
dùng ác tâm vì lợi-dưỡng buôn bán nam-sắc, nữ-sắc, tự tay làm đồ ăn,
tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, bùa
chú, pháp thuật, nghề-nghiệp, phương-pháp nuôi ó và chó săn, hòa-hiệp trăm
thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh-kim, sanh-ngân, độc sâu cổ,
đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
30.- GIỚI
QUẢN LÝ CHO BẠCH Y
Nếu Phật-Tử
vì ác tâm, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì nói
không, mà hành-vi lại ở trong có, làm Quản-lý cho hàng bạch-y, vì hàng bạch-y
làm mai làm mối cho nam cho nữ giao-hội dâm-sắc gây thành các nghiệp kiết-phược,
những ngày lục-trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi
năm, làm việc sát sanh, trộm cướp, phá-trai, phạm-giới. Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Mười giới như thế, cần nên học hết lòng kính-trọng phụng-trì. Trong phẩm “Chế Giới” có giảng rõ.
31.- GIỚI
KHÔNG MUA CHUỘC
Nếu Phật-Tử,
sau khi Phật nhập-diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại-đạo, bọn giặc
cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-Tát, cha mẹ,
đem bán Kinh Luật, đem bán Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cùng người hành đạo Bồ-Tát,
kẻ phát tâm Bồ-Đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ
cho mọi người. Phật-Tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ-bi tìm
cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật-Tử phải đi quyên tiền các
nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-Tát và tất cả Kinh Luật, chuộc Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người tu hạnh Bồ-Tát, kẻ phát tâm Bồ-Đề. Nếu
không chuộc, Phật-Tử này phạm “Khinh
cấu tội”.
32.- GIỚI TỔN
HẠI CHÚNG SANH
Nếu Phật-Tử,
không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí-giới sát-sanh. Không được chứa
cân non giạ thiếu. Không được nương thế-lực quan quyền mà lấy tài vật của người.
Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc
thành-công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó ... Nếu cố làm các điều
trên, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
33.- GIỚI TÀ
NGHIỆP GIÁC QUÁN
Nếu Phật-Tử,
không đặng vì ác-tâm đi xem tất cả nam nữ v.v... đánh nhau, hay
quân trận binh tướng giặc cướp v.v... đấu chiến nhau. Cũng chẳng được đi xem
hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v... cho đền bói xủ. Chẳng
được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
34.- GIỚI TẠM
BỎ BỒ ĐỀ TÂM
Nếu Phật-Tử,
ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ-Tát nầy. Nên giữ gìn giới
luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim-cương,
nhe đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-Kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường
có tín tâm lành đối với đại-thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa
thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ-Đề-Tâm và giữ vững không
thối chuyển. Nếu có một tâm-niệm xu-hướng theo Nhị-Thừa hay ngoại-đạo, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
35.- GIỚI
KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Nếu Phật-Tử,
nên phát những điều nguyện lớn : Nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ,
Sư-Tăng - Nguyện đặng gặp được thầy tốt - Bạn Thiện-Tri-Thức - Thường dạy
bảo tôi các Kinh Luật Đại-Thừa - dạy cho tôi về Thập-Phát-Thu - Thập-Trưởng-Dưỡng
- Thập-Kim-Cương - Thập-Địa - Cho tôi hiểu rõ để tu
hành đúng chánh-pháp - Nguyện giữ vững giới của Phật : Thà chết chớ không
chịu phai lòng. Nếu tất cả Phật-Tử không phát những điều nguyện trên đây thời phạm
“Khinh cấu tội”.
36.- GIỚI
KHÔNG PHÁT THỆ
Nếu Phật-Tử
khi đã phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ gìn giới-cấm
của Phật. Tự thệ rằng : Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không
cùng với tất cả người nữ (nam) làm điều bất-tịnh để phạm điều cấm trong Kinh Luật
của Tam-Thế chư Phật.
Lại thệ rằng
: Thà lấy lưới sắt nóng quấn thân mình cả nghìn lớp, quyết không để thân nầy phá
giới mà thọ những đồ y-phục của tín tâm đàn-việt. Thà chịu nuốt
hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp quyết không để miệng
này phá giới mà ăn các thứ thực-phẩm của tín-tâm đàn-việt. Thà nằm
trên đống lửa lớn, trên tấm sắt nóng, quyết không để thân này phá giới mà
nhận lấy các thứ giường ghế của tín-tâm đàn-việt. Thà trong một hai kiếp chịu
cho cả trăm gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân này phá giới mà
thọ các thứ thuốc men của tín-tâm đàn-việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi
trong trăm nghìn kiếp quyết không để thân này phá giới mà lãnh những
phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát
thệ rằng : Thà dùng chày sắt đập thân nầy từ đầu tới chân nát như tro bụi, quyết
không để thân nầy phá giới mà thọ sự cung-kính lễ-bái của
tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ
rằng : Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình quyết không đem
tâm phá giới này mà nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy trăm nghìn
dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải trong một hai kiếp, quyết không đem
tâm phá giới này mà nghe tiếng tốt giọng hay. Thà lấy trăm
nghìn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt đứt lưỡi mình, quyết
không đem tâm phá giới này, mà ăn các thứ tinh-thực của người. Thà lấy
búa bén chặt chém thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này
mà tham mặt đồ tốt.
- Lại phát
nguyện : Nguyện cho tất cả chúng-sanh đều được thành Phật.
Nếu Phật-Tử không phát những điều thệ này, thời phạm “Khinh cấu tội”.
37.- GIỚI
VÀO CHỖ HIỂM NẠN
Nếu Phật-Tử,
mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi
thiền kiết-hạ an-cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba
Y, bát, bình, tọa-cụ, tích-trượng, hộp lư-hương, đãy lược nước, khăn tay, con
dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh, luật, tượng Phật, tượng Bồ-Tát.
Khi Phật-tử hành đầu-đà cùng lúc du-phương đi lại trăm dặm ngàn dặm,
mười tám món này mang luôn bên mình. Đây là hai kỳ hành đầu-đà trong mỗi năm :
Từ rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba, và từ rằm tháng Tám đến rằm tháng Mười.
Trong hai kỳ hành đầu-đà luôn mang theo mình mười tám món ấy như chim
hai cánh.
Nếu đến
ngày Bố-tát, hàng tân-học Phật-tử, mỗi nửa tháng luôn Bố-tát, tụng mười giới
trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới,
nên ở trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tụng. Chỉ có một người Bố-Tát thời
một người tụng, nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn người cũng một người
tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao người nghe ngồi thấp. Mỗi
người đều đắp y hoại-sắc chín điều, bảy điều và năm điều. Trong lúc
Kiết-Hạ an-cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc.
Lúc hành đầu-đà
chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm-ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập-gềnh,
cỏ cây rậm-rạp, chỗ có giống sư-tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp,
đường xá có rắn rít ... Tất cả nơi hiểm nạn ấy điều không được đến. Chẳng những
lúc hành đầu-đà, mà lúc kiết-hạ, an-cư cũng không được vào những chỗ hiểm-nạn ấy.
Nếu cố vào
những nơi ấy, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu
tội”.
38.- GIỚI
TRÁI THỨ TỰ TÔN TY
Nếu Phật-Tử,
phải theo thứ-tự đúng pháp mà ngồi : Người thọ giới trước thời ngồi
trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ-Kheo,
Tỳ-Kheo-Ni, người sang như Quốc-Vương, Hoàng-Tử, nhẫn đến kẻ hèn như Huỳnh-môn,
tôi-tớ v.v... tất cả đều nên theo thứ-tự mà ngồi : Người thọ giới trước
thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.
Không được
như hàng ngoại-đạo, si-mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn-xộn không có
thứ-tự, không khác cách ngồi của bọn binh-nô. Trong Phật-Pháp của Ta, hễ người thọ
giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau thời ngồi
sau.
Nếu Phật-Tử
không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm “Khinh-Cấu-Tội”.
39.- GIỚI
KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ
Nếu Phật-Tử,
thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo Tăng-Phường
nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật-Tháp, chỗ an-cư, tọa-thiền
trong mùa Đông mùa Hạ, tất cả những cơ-sở hành-đạo đều nên kiến-tạo.
Người Phật-Tử
phải giảng-thuyết Kinh Luật Đại-Thừa cho tất cả chúng-sanh. Lúc tật-bịnh, nước
có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê khuất-tịch, và mỗi
tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết Kinh Luật Đại-Thừa.
Tất cả những Trai-hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi
có tai nạn lụt, bão, hỏa-hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển
lớn, gặp quỷ La-Sát v.v... đều cũng đọc tụng Kinh Luật Đại-Thừa. Nhẫn
đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn. Thất nghịch gông
cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nhiều dâm, nhiều
sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng Kinh Luật Đại-Thừa
nầy.
Nếu hàng
tân-học Phật-Tử không thực-hành như trên đây, thời phạm “Khinh cấu tội”.
Chín giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. Trong phẩm “Phạm-Đàn” có giảng rộng.
40.- GIỚI
KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI
Nếu Phật-Tử,
lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng Quốc-Vương,
Hoàng-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ, Dâm-Nam, Dâm-Nữ, Phạm-Thiên
trong 18 cõi Sắc, Thiên-Tử trong sáu cõi dục, người thiếu căn, hai căn, huỳnh-môn,
tôi-tớ và tất cả Quỷ-Thần đều được thọ giới. Tất cả y-phục ngọa-cụ nên bảo
phải hòa màu : Xanh, đỏ, đen, tím nhuộm thành hoại sắc cho hiệp với đạo.
Trong tất cả
quốc-độ, theo y-phục của người trong nước mặc, y-phục của thầy Tỳ-Kheo đều phải
khác với y-phục của người thế-tục.
Khi ai muốn
thọ Bồ-Tát giới, vị Sư phải hỏi rằng : Trong đời nầy ngươi có phạm
tội thất-nghịch chăng ? Bồ-Tát Pháp-Sư không được cho người phạm tội thất-nghịch thọ
giới trong đời nầy.
Đây là tội
thất-nghịch :
1. Ác-tâm làm thân Phật chảy máu;
2. Hại bực Thánh-Nhân;
3. Giết cha;
4. Giết mẹ;
5. Giết Hòa-Thượng;
6. Giết A-Xà-Lê;
7. Phá Yết-Ma-Tăng, chuyển
Pháp-Luân-Tăng.
Nếu phạm
tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất
cả người đều được thọ giới.
Theo pháp của
người xuất-gia, không lạy Quốc-Vương, cha mẹ, lục thân và quỷ-thần.
Phàm hễ ai
nhận được hiểu lời nói của Pháp-Sư đều được thọ giới. Mà có người
từ trăm dặm nghìn dặm đến cầu Pháp, nếu Bồ-Tát Pháp-Sư vì ác
tâm, sân tâm, mà không mau mắn truyền giới Bồ-Tát cho người ấy,
thời phạm “Khinh cấu tội”.
41.- GIỚI
VÌ LỢI LÀM THẦY
Nếu Phật-Tử, giáo
hóa người sanh lòng tin tưởng Pháp đại-thừa, Bồ-Tát làm Pháp-Sư
giáo giới cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-Tát, nên bảo
người ấy thỉnh hai Đại-Sư : Hòa-Thượng và A-Xà-Lê.
Phải hỏi
người ấy có phạm tội thất-nghịch không ? Nếu người ấy hiện đời
có phạm tội thất-nghịch, thời Pháp-Sư không được cho người ấy thọ
giới. Như không phạm tội thất-nghịch thời cho thọ giới. Nếu
có phạm trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám-hối, đối trước tượng
Phật và Bồ-Tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-Tát tha-thiết đảnh-lễ
Tam-Thế Chư Phật cho được thấy hảo tướng. Sám-hối như thế trong bảy ngày,
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, nhẫn đến trọn năm mãi đến chừng
nào thấy được hảo-tướng. Đây là hảo-tướng : Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy
quang-minh, thấy hoa báu v.v... các thứ cảnh tưởng lạ. Thấy được những hảo
tướng ấy là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu
không được thấy hảo tướng, dầu có sám-hối vẫn vô ích. Người này
hiện đời cũng không đắc giới, nhưng đặng tăng ích thọ giới.
Nếu là người
phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối-thú sám-hối, thời tội đặng tiêu-diệt,
không phải như tội thất-nghịch.
Vị Pháp-Sư
giáo-giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu
Kinh Luật Đại-thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải, chẳng
phải, không hiểu đệ-nhất Nghĩa-đế, tập chủng-tánh, trưởng-dưỡng tánh, tánh chủng-tánh,
bất-khả hoại-tánh, đạo-chủng-tánh, chánh-pháp-tánh. Những quán-hạnh đa, thiểu,
xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp hạnh, mỗi
mỗi đều không thông hiểu. Phật-tử vì tài lợi, vì danh tiếng, cầu
quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông lên giả tuồng là mình hiểu biết tất
cả Kinh Luật để được cúng-dường đó là tự dối mình mà cũng khi-dối người khác. Nếu
cố làm Giáo-Sư truyền giới cho người, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
42.- GIỚI
VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG GIỚI
Nếu Phật-Tử,
không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật đây, nói
với người chưa thọ giới Bồ-Tát, hoặc với hàng ngoại-đạo, những người tà
kiến ... trừ Quốc-Vương, ngoài ra không được nói với tất cả hạng
người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi là
súc-sanh, đời đời sanh ra không gặp được Tam-Bảo, như cây đá, không
có tâm-thức, gọi là ngoại-đạo, bọn tà-kiến, nào khác cây cối. Với những hạng
người tà ác ấy, nếu Phật-Tử giảng nói giới-pháp của chư Phật, thời phạm “Khinh cấu tội”.
43.- GIỚI CỐ
MỐNG TÂM PHẠM GIỚI
Nếu Phật-Tử,
do đức tin mà xuất gia, thọ chánh-giới của Phật, lại cố mống tâm
hủy phạm giới-pháp, thời không được thọ lãnh đồ cúng dường của
tất cả đàn-việt, cũng không được đi trên đất của Quốc-dân, không được uống nước
của Quốc-dân. Năm nghìn Đại-Quỷ luôn đứng án trước mặt người đó mà gọi
là Gã bợm giặc.
Nếu
khi đi vào trong phòng nhà thành ấp, các Quỷ thường theo chà
quét dấu chân của người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ
giặc trong Phật-Pháp. Hết thảy chúng-sanh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm
giới, khác nào loài súc-sanh, cây cỏ. Nếu cố phá-hủy giới-pháp của Phật, Phật-Tử
này phạm “Khinh cấu tội”.
44.- GIỚI
KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
Nếu Phật-Tử,
phải thường nhất-tâm thọ-trì đọc tụng Kinh Luật Đại-thừa, dùng giấy,
vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu
làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép Kinh Luật,
dùng vàng bạc làm hộp, rương, đựng những quyển Kinh Luật.
Nếu
không y theo Pháp mà cúng-dường Kinh Luật, Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
45.- GIỚI
KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
Nếu Phật-Tử,
nên có lòng đại-bi, khi vào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những loài
chúng-sanh, phải xướng lên rằng: Các ngươi đều nên thọ Tam-Quy và Thập-Giới. Nếu
gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê, v.v.. nên tâm nghĩ miệng nói: Các ngươi
là súc sanh phát Bồ-Đề-Tâm. Khi Phật-tử đi đến núi, rừng, sông, nội
cùng tất cả chỗ, đều làm cho hết thẩy chúng-sanh phát Bồ-Đề-Tâm.
Nếu Phật-Tử
không phát-tâm giáo hóa chúng-sanh, thời phạm “Khinh cấu tội”.
46.- GIỚI
THUYẾT PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP
Nếu Phật-Tử,
thường nên có lòng đại-bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà đàn-việt sang
giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết-pháp cho hàng bạch-y.
Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch-y.
Vị Tỳ-Kheo
Pháp-Sư không được đứng dưới đất thuyết-pháp cho tứ-chúng. Khi thuyết-pháp
vị Pháp-Sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường, còn tứ
chúng, hàng thính-giả thời ngồi dưới. Đối với Pháp-Sư phải như là hiếu-thuận cha
mẹ, kính-thuận Sư-trưởng như Bà-La-Môn thờ lửa. Nếu Phật-Tử thuyết-pháp mà
không đúng như pháp thời phạm “Khinh
cấu tội”.
47.- GIỚI
CHẾ HẠN PHI PHÁP
Nếu Phật-Tử,
đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc-Vương, Hoàng-tử,
các Quan, bốn bộ đệ-tử tự ỷ thế lực cao-quý, phá diệt giới-luật Phật-Pháp,
lập ra điều-luật chế, hạn chế bốn bộ đệ-tử của Phật, không cho xuất-gia
hành-đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ-Tát, cùng Tháp
và Kinh Luật. Lại đặt ra chức Quan đổng-lý hạn-chế tứ-chúng, và lập bộ sổ ghi số
Tăng Tỳ-Kheo Bồ-Tát đứng dưới đất còn Bạch-y ngồi tòa cao, làm nhiều
việc phi-pháp như binh-nô thờ chủ. Hàng Bồ-Tát này chính nên được mọi người cúng-dường,
mà trở lại bắt làm tay sai của các Quan chức, thế là phi-pháp phi-luật.
Nếu Quốc-vương
và các Quan có lòng tốt thọ-giới của Phật, chớ làm những tội phá
Tam-Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “Khinh
cấu tội”.
48.- GIỚI
PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Nếu Phật-Tử,
do lòng tốt mà xuất-gia, lại vì danh tiếng cùng tài lợi, giảng
thuyết giới của Phật cho Quốc-Vương và các Quan, làm những sự gông trói
các Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người thọ giới Bồ-Tát như cách của ngục-tù
và binh-nô. Như trùng trong thân Sư-tử tự ăn thịt Sư-tử, chớ chẳng phải
trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật-Tử tự hủy phá Phật-Pháp, không phải
ngoại-đạo hay Thiên-Ma phá được.
Người
đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới-luật của Phật như ấp
yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật-Tử
khi nghe ngoại-đạo, người ác dùng lời xấu hủy-báng giới-pháp của Phật, thời đau
đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả nghìn
lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam vào ở địa-ngục đến
trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy-báng giới pháp của
Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu-thuận, tự mình hủy-phá giới-pháp
của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy-phá. Nếu cố phá giới-pháp,
Phật-Tử này phạm “Khinh cấu tội”.
Chín giới như vậy, cầu nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.
VII.- TỔNG-KẾT
Đức Phật dạy
: Các Phật-Tử ! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các người phải thọ-trì. Chư
Bồ-Tát thuở đời quá-khứ đã tụng, chư Bồ-Tát thuở đời vị-lai sẽ tụng, chư Bồ-Tát
hiện-tại đương tụng.
Các Phật-Tử
lóng nghe ! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đây, chư Phật trong
ba thuở đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng như vậy.
VIII.- LƯU-THÔNG
Đức Phật phán
tiếp : Tất cả Đại-Chúng, Quốc-Vương, Vương-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni,
Tín-Nam, Tín-Nữ thảy, những người thọ-trì giới Bồ-Tát, nên phải thọ-trì đọc
tụng giảng-thuyết biên chép quyển giới-pháp Phật-Tánh thường-trụ để
lưu-thông mãi-mãi. Tất cả chúng-sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do
đây, đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Đời đời khỏi hẳn
ba ác đạo và tám chỗ nạn. Thường được thác-sanh trong loài người,
hay cõi Trời.
Nay Ta ở dưới
cội Bồ-Đề nầy, lược-giảng giới-pháp của chư Phật. Tất cả đại-chúng phải nhất-tâm
học Ba-La-Đề-Mộc-Xoa, hoan hỷ phụng hành.
Như phần Khuyến Học trong phẩm “Vô-Tướng
Thiên-Vương” mỗi mỗi đều giảng rõ.
Lúc đó chư vị Học-sĩ trong cõi tam-thiên ngồi lóng nghe đức Phật tụng
giới, hết lòng kính-trọng, hoan-hỷ thọ-trì.
Đức Thích-Ca
Mâu-Ni giảng xong về mười vô-tận giới pháp trong phẩm Tâm-Địa
Pháp-Môn của đức Phật Lô-Xá-Na đã giảng nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng
lúc trước, nghìn trăm ức đức Thích-Ca cũng đồng giảng như vậy.
Từ cung Đại-Tự-Tại
Thiên-Vương đến dưới cây Bồ-Đề nầy, thuyết-pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ-Tát
và vô-số đại-chúng thọ-trì đọc tụng giải-thuyết pháp-nghĩa cũng như vậy.
Nghì trăm ức
thế-giới, Liên-Hoa Đài-Tạng thế-giới, vi-trần thế-giới, chư Phật cũng giảng-thuyết
như vậy. Tất cả Phật-Tâm-Tạng, Địa-Tạng, Giới-Tạng, Vô-Lượng Hạnh-Nguyện-Tạng,
Nhân-Quả Phật-Tánh Thường-Trụ-Tạng.
Tất cả chư Phật giảng thuyết vô-lượng pháp-tạng như thế đã xong.
Hết thảy chúng-sanh trong nghìn trăm ức thế-giới đều thọ trì hoan-hỷ
phụng-hành.
PHẬT
THUYẾT
PHẠM
VÕNG KINH
BỒ TÁT
TÂM ĐỊA PHẨM
HẾT
Còn về phần giảng rộng những hành-tướng của
tâm-địa thời như trong phẩm “Phật-Hoa Quang-Vương Thất-Hạnh” có nói.
Nhà Dao-Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư
CƯU MA LA THẬP Hán dịch
Hòa-Thượng THÍCH TRÍ TỊNH Việt
dịch
CHỨNG MINH: THÍCH HUỆ QUANG
HÒA THƯỢNG PHÁP CHỦ GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NAM VIỆT
KINH PHẠM VÕNG
PHẨM BỒ TÁT TÂM ĐỊA
PHẦN DƯỚI
Giảng Sư
Hòa thượng THÍCH TRÍ TỊNH
LỜI NÓI ĐẦU
KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT
GIỚI
I. LỜI KHAI GIẢNG
II. PHẦN KHAI KINH
III. PHẦN QUY KÍNH
IV. PHẦN XƯỚNG THỜI
GIAN
V. PHẦN KHUYẾN TẤN
PHẦN NGUYÊN VĂN CỦA
KINH
I. LÔ XÁ NA PHẬT
II. THÍCH CA MÂU NI
PHẬT
III.
ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI
IV. MƯỜI GIỚI TRỌNG
1.- GIỚI SÁT SANH
2.- GIỚI
TRỘM CƯỚP
3.- GIỚI
DÂM
4.- GIỚI
VỌNG
5.- GIỚI
BÁN RƯỢU
6.- GIỚI
RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
7.- GIỚI
TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
8.- GIỚI
BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI
9.- GIỚI
GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
10.-
GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
V. ĐỨC PHẬT KẾT
RĂN
VI. 48 ĐIỀU
GIỚI KHINH
1.-
Giới không kính thầy bạn
2.- Giới uống rượu
3.- Giới ăn thịt
4.- Giới ăn ngũ-tân
5.- Giới không dạy người sám tội
6.- Giới không cúng dường thỉnh
Pháp
7.- Giới không đi nghe Pháp
8.- Giới có tâm trái bỏ Đại-Thừa
9.- Giới không khán bịnh
10.- Giới chứa khí cụ sát-sanh
11.- Giới đi sứ
12.- Giới buôn bán phi pháp
13.- Giới hủy-báng
14.- Giới phóng hỏa
15.- Giới dạy giáo-lý ngoài
Đại-Thừa
16.- Giới vì lợi mà giảng pháp lộn
lạo
17.- Giới cậy thế-lực quyên tởi (GÓP)
18.- Giới không thông hiểu mà làm
thầy truyền giới
19.- Giới lưỡng thiệt ( Lưỡi đôi
chiều )
20.- Giới không phóng-sanh
21.- Giới đem sân báo sân đem đánh
trả đánh
22.- Giới kiêu mạn không thỉnh Pháp
23.- Giới khinh ngạo không tận tâm
dạy
24.- Giới không tập học Đại-Thừa
25.- Giới tri-Chúng vụng về
26.- Giới riêng thọ lợi dưỡng
27.- Giới thọ biệt thỉnh
28.- Giới biệt thỉnh Tăng
29.- Giới tà mạng nuôi sống
30.- Giới quản-lý cho Bạch-Y
31.- Giới không mua chuộc
32.- Giới tổn hại chúng-sanh
33.- Giới tà nghiệp giác quán
34.- Giới tạm bỏ Bồ-Đề tâm
35.- Giới không phát nguyện
36.- Giới không phát thệ
37.- Giới vào chỗ hiểm nạn
38.- Giới trái thứ tự tôn ty
39.- Giới không tu phước-huệ
40.- Giới không bình đẳng truyền
giới
41.- Giới vì lợi làm thầy
42.- Giới vì người ác giảng giới
43.- Giới cố mống tâm phạm giới
44.- Giới không cúng-dường
Kinh-Luật
45.- Giới không giáo hóa chúng-sanh
46.- Giới thuyết-Pháp không đúng
Pháp
47.- Giới chế hạn phi pháp
48.- Giới phá diệt Phật-Pháp
VII. TỔNG
KẾT
VIII. LƯU
THÔNG
IX. KỆ
KHEN TẶNG PHÁP GIỚI
X.-
PHẦN HỒI-HƯỚNG
Trên
Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân
Nam-Mô
Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo (
3 lần )
KIẾT KINH KỆ
Trời,
A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-Mô
Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát ( 3 lần )
Ma-Ha-Tát ( 1 lần
)
CHUNG
Comments
Post a Comment