Ngày Kỷ Niệm Đức QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT xuất gia

Ngày 19 Tháng 9  ÂM LỊCH

(02/11/2023)

 



KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI

 

Đời Đường, Sa-môn Dà-Phạm Đạt-Mạ người xứ Tây-Thiên-Trúc dịch 


 LỜI BẠT



Đời càng đi sâu vào mạt pháp, sự khổ của nhơn loại càng thêm nhiều. Đó cũng là cộng nghiệp của chúng sanh chứa góp từ nhiều kiếp trước đến kiếp này, đã tới kỳ bộc phát. Túc-nghiệp đã sẵn, hiện nghiệp lại giúp duyên, như lửa gặp được dầu càng thêm lan cháy! 

Thế-giới ngày nay, chiến tranh hết nơi này đến nơi khác, nhiều chứng bịnh lạ nảy sanh, trộm cướp hoành hành, nhơn dân nghèo khổ. Mỗi năm những tin tức bão lụt, động đất, nắng hạn, mất mùa, ở khắp các xứ không biết là bao nhiêu! Cảnh đã như thế, con người phần nhiều càng hung ác, gian xảo, không biết tỉnh thức ăn năn. Những thảm trạng do lòng tham địa vị, tình ái, tiền tài, kết quả gây ra tàn hại lẫn nhau cũng không xiết kể! 

Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Tâm như người họa khéo, vẽ vời cảnh thế gian”. Cảnh đời vui khổ đã do hành vi lành dữ phát sanh từ tâm niệm của loài người thì muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải tự tỉnh, ăn năn, giữ tám chữ: TRUNG, HIẾU, ĐỄ, TÍN, LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ và tấm lòng chân thật ngay thẳng, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài ra, muốn tiêu trừ nghiệp chướng, tránh khỏi họa tai, người biết Phật pháp lại cần phải cầu nơi tha lực như tu các hạnh niệm Phật, niệm Quán Thế Âm hoặc thọ trì mật chú nữa.

Xem kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà Ra ni, tôi thấy những công đức an vui, thoát khổ trong ấy rất cần thiết đối vớI hiện cảnh ngày nay, nhân có một Phật tử yêu cầu phiên dịch, tôi liền vui lòng hứa nhận. 

Theo trong Hiển Mật Viên Thông, người tu Chân ngôn về sắc trần cần phải rõ rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trại vớI Phạm Âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ trước đến nay, hàng Phật tử ở Trung Hoa cho đến Việt-Nam ta, khi đọc tụng chú, thật ra đều trại vớI chánh âm, song vẫn cảm được oai thần công đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm này làm nghi, mà mất phần lợi ích. 


Lại từ trước đến nay, chú ngữ không phiên dịch vì 5 duyên cớ: 



1. Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch

Như chúng sanh dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế hợp với chân tâm của Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn này nghĩa như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm? 



2. Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch 


Trong một chữ chân ngôn có nhiều nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia. Không được toàn vẹn. Thí dụ, riêng một chữ đã hàm súc những nghĩa như bất sanh, bất diệt, không, căn bản, chân thể, và nhiều nghĩa khác nữa. 



3. Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch

Nhiều chữ trong chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ Tát, Thiên, Long, Quỷ Thần, như chữ 
HỒNG gồm 4 chữ HẠ, A, Ô, MA hiệp thành, chỉ cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có, như danh từ Diêm Phù thọ chẳng hạn. 



4. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch 

Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm. Thí dụ: câu 
“TÔ RÔ TÔ RÔ” là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ ÁN” (Aum), đọc lên có năng lực thầm kín, làm rung chuyển không gian. Hay như chữ “TA BÀ HA” (svaha) có sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh từ nguyên chữ Phạn sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không dịch ra. 



5. Vì sự sanh thiện bí mật nên không phiên dịch 

Như danh 
từ “Bát-nhã” người đọc lên sanh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu dịch là trí huệ thì sanh lòng khinh thường, không quí trọng. 

Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải là không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh mạn mà mang tội. 

Lại trong kinh có câu: 'Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả'. Vậy tụng trì đúng pháp là sao? Trong đây xin chia ra hai phương diện: 



         1)
 Về mặt giữ gìn giới hạnh:

Người trì chú cần phải giữ trai giới, trừ sát, đạo, dâm, vọng, kiêng cữ rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi cùng các thức ăn hôi hám. Thân thể thường phải năng tắm gộI, thay đổi y phục cho sạch sẽ, chớ để trong người có mùi hôi. Khi đại tiểu xong, phải rửa tay đọc chú. Trước khi trì chú phải súc miệng cho sạch. Lại nữa, trong thời gian kiết thất trì chú, ngườI ấy chớ nên nói chuyện hí hước tạp nhạp, không nên khởi tâm hờn giận, hoặc tham tưởng sự ăn uống ngủ nghỉ hay sự dục lạc ngoài đời. Phải giữ lòng thanh tịnh, tin tưởng, thành kính. 



            2) Về mặt lập đàn tụng niệm: 

Theo đúng pháp, người trì chú nào phải thờ vị Bổn Tôn của chú ấy. Như trì chú Đại Bi thì phải thờ tượng Thiên Nhãn, hoặc tượng Quán Âm 24 tay, 18 tay, 8 tay, 4 tay hay ít lắm là tượng Quán Âm thường cũng được. Nên để tượng day mặt về phương Tây. ( Theo quyển 
“Bách Lục Thỉnh Quán Âm Nghi” thì nếu có tượng Bổn Sư nên để tượng Thích Ca hướng về phương Nam, tượng Quán Âm hướng về phương Đông). Đàn tràng nên lựa chỗ vắng lặng sạch sẽ, thường dùng hương, hoa, nước trái cây, cùng các thứ ăn uống cúng dường tôn tượng. Nếu có phương tiện, treo tràng phan, bảo cái lại càng tốt. Thời gian cầu nguyện hoặc 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày nên giữ cho đúng. Trước khi vào đàn, phải kiết giới y như kinh đã chỉ dạy. Trong một ngày đêm, chia ra làm 3, 4 hoặc 6 thờI, tụng niệm tiếp tục, tiếng tụng cần phải rành rẽ, rõ ràng. Ngoài ra, nghi thức lễ bái, trì niệm cũng cần phải biết và học thuộc trước. 

Trên đây là nói về cách lập đàn kiết giới tụng niệm để cầu cho được mau hiệu nghiệm, nếu người thường tụng trì, không bắt buộc phải theo lệ ấy. Nhưng trong 2 phương diện trên, gắng giữ được phần nào lại càng hay. 

Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng, dịch ra quyển này, tôi chỉ kính vâng theo bi nguyện của chư Phật, Bồ Tát, và thuận với sự mong cầu, thích hợp của hành nhơn mà thôi. Nếu vị nào lấy tâm Bồ Đề làm nhân, tùy theo chí nguyện, lựa một pháp môn tu đều có thể giải thoát. Nhưng, chúng sanh đờI mạt pháp, phần nhiều là hàng trung, hạ, ít có bậc thượng căn, cần nương nhờ nơi tha lực mới mong được kết quả chắc chắn. Tịnh tông và Mật Tông đều thuộc về tha lực pháp môn, mà Tịnh tông lại là chỗ quy túc cho các tông khác.

Nguyện xin các đồng nhơn, từ đây dứt dữ làm lành, tin sâu lý nhân quả, rồi hoặc chuyên niệm Phật, hoặc lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh, trì chú, tham thiền làm trợ, để tự tu và khuyên người. Như thế mới là mưu hạnh phúc cho chính mình, cho thân nhơn và tất cả sanh loại. Như thế mới có thể chuyển họa thành phước, đổi cảnh trạng thống khổ trước mắt thành cảnh giới an ổn, vui tươi. Để rồi ngày lâm chung, lại được cùng nhau chân bước lên chín phẩm liên đài, thân ra khỏi 3 ngàn thế giới, thấy Di Đà trong hiện kiếp, chứng đạo giác nơi tương lai.

Như vậy chẳng quý hơn ư?

 

LIÊN DU

  Thích Thiền-Tâm 

I

PHẦN THÔNG TỰ

 

Như thế tôi nghe, một thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại non Bổ Đà Lạc Ca, đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc báu tạp ma-ni, xung quan treo nhiều tràng phan bá bảo. 


Khi ấy, đức Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn tổng trì đà ra ni, có vô lượng số Bồ Tát ma ha tát câu hội, các vị ấy là: 

 

Tổng Trì Vương Bồ Tát, 

Bảo Vương Bồ Tát, 

Dược Vương Bồ Tát, 

Dược Thượng Bồ Tát, 

Quán Thế Âm Bồ Tát, 

Đại Thế Chí Bồ Tát, 

Hoa Nghiêm Bồ Tát, 

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, 

Bảo Tạng Bồ Tát,

Đức Tạng Bồ Tát, 

Kim Cang Tạng Bồ Tát, 

Hư Không Tạng Bồ Tát, 

Di Lặc Bồ Tát, 

Phổ Hiền Bồ Tát, 

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát... 


Những vị Bồ Tát như thế đều là bậc quán đảnh đại pháp vương tử.

 

Lại có vô lượng vô số đại thanh văn đều là bậc A La Hán, tu hạnh thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma Ha Ca Diếp làm thượng thủ.

Lại có vô lượng Phạm Ma La Thiên câu hội. Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chư thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Cù Bà Dà thiên tử làm thượng thủ. 

Lại có vô lượng hộ thế tứ thiên vương câu hội trong ấy, ngài Đề Đầu Lại Tra làm thượng thủ.

Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi nhơn câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại long vương làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chư thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội, trong ấy, ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ. 

Lại có vô lượng Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần... đều đến tập hội. 

 


PHẦN CHÚ THÍCH



(1) Dà Phạm Đạt Mạ: Tiếng Phạm (Bhagavaddharma), dịch là Tôn-Pháp, một vị Sa-môn người Ấn-Độ, du hóa vào Trung-Quốc vào niên hiệu Khai-nguyên đời nhà Đường. 

(2) Thích Ca Mâu Ni: tiếng phạm (Sakyamuni) dịch là Năng Nhân Tịch Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên, ngài giáng sanh ở Trung-Ấn-Độ, 25 thế kỷ về trước, tu thành Phật làm vị giáo chủ cõi Ta Bà. 

(3) Bổ Đà Lạc Ca: Tiếng Phạm (Potalaka), dịch là Quang Minh Sơn, tên một tòa núi ở hải đảo phía Nam Xứ Ấn-Độ, núi này hình bát giác, đức Quán Thế Âm trụ tích nơi đây. 

(4) Ma ni: tiếng phạm (Mani), dịch là trân bảo, ly cấu, như ý. Vì rất quý nên gọi là châu, bảo; vì trong suốt, sáng rỡ nên gọi là ly cấu; vì tuỳ sở biến hiện nên gọi là như ý. 

(5) Đà ra ni: tiếng phạm (dharani), dịch là Tổng Trì, có 3 loại: một chữ, nhiều chữ và không chữ. Vì bao gồm vô lượng pháp nên gọI là Tổng, vì giữ chứa vô lượng nghĩa nên gọi là trì. Tổng trì có công năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành. 

(6) Bồ Tát Ma Ha Tát: tiếng phạm (bodhisattva mahasattva), Bồ tát dịch đại đạo tâm chúng sanh, hoặc giác hữu tình, nghĩa là bậc chúng sanh có lòng đạo lớn, và tuy giác ngộ mà còn có tình thức. Ma ha tát dịch là đại chúng sanh. Nói tóm lại, Bồ Tát Ma Ha tát là đại bồ tát, bậc bồ tát lớn trong hàng Bồ Tát. 

(7) Di Lặc: tiếng phạm (Maitreya), dịch là Từ Thị, tên một vị Bồ Tát, sẽ nối ngôi thành Phật, kế đức Thích-Ca-M
âu-Ni. 

(8) Văn Thù Sư Lợi: tiếng phạm (Manjusri), có chỗ đọc là Mạn Thù Thất Lỵ, dịch là Diệu Đức, hoặc Diệu Kiết Tường, tên một vị Bồ tát thường hầu bên tả đức Thích Ca, giữ về phần trí huệ. 

(9) Quán đảnh đại pháp vương tử: vị bồ tát khi chứng ngôi đẳng giác, trụ nơi cung điện trang nghiêm ở cõi trời Đại Tự Tại, chư Phật 10 phương phóng ánh sáng đến chiếu rót vào đảnh đầu (quán đảnh). Đây là lễ ấn chứng cho chánh thức làm con của đấng Pháp vương (pháp vương tử). Sau này sẽ nối ngôi Phật, lệ như thái tử thọ phong nơi vua. 

(10) 
A LA HÁN:  tiếng phạm (arahat), ngôi cực quả trong hàng tiểu thừa, có 3 nghĩa:

Ứng cúng: đáng được thọ trời, người cúng

Vô sanh: đã dứt sự sống chết, không còn luân hồi 

Sát tặc: giết chết giặc phiền não, hoại nghiệp. 

(11) Ma ha Ca Diếp: tiếng phạm (mahàkasyàpa), Ma ha dịch là đại, Ca Diếp dịch là ...
Ẩm-Quang, tên một vị đệ tử lớn của Phật, hạnh đầu đà bậc nhất. Khi ngài mới sanh ra, có ánh sáng lấn át cả ánh sáng nhựt nguyệt. 

(12) Phạm ma la thiên: tiếng phạm (Brahman)gọi tắt là Phạm Thiên, tên một cõi trờI ở Sắc giớI, Phạm nghĩa là trong sạch, vì chư thiên ở cõi này xa lìa sự dâm dục, sống trong cảnh an vui của thiền định. 

(13) Thiện tra phạm ma: tên của vị thiên tử làm chủ cõi phạm thiên. 

(14) Cù bà dà thiên tử: tên một vị thiên tử ở cõi Dục giới chuyên giữ pháp lành cho chúng sanh. 

(15) Tứ thiên vương: bốn vị thiên chủ ở bốn cung trời ở giữa chừng núi Tu Di: phương đông Trì Quốc thiên vương, phương Nam Tăng Trưởng Thiên Vương, phương Tây Quảng Mục Thiên Vương, phương Bắc Đa Văn Thiên Vương. 

(16) Đề Đầu Lại Tra: tiếng phạm (Dhrtaràstra), cũng gọI là Đề Đa La Tra, tức Trì Quốc Thiên Vương. 

(17) Thiên, tiếng Phạm gọI là Đề Bà (Déva) ta gọi là Trời. Các vị này do tu thập thiện nên hưởng phước thiên nhiên, sự ăn mặc tùy niệm hiện thành. 

Long: tiếng Phạm gọi là Na Già (nagà) ta gọI là rồng, loài này có thần thông biến hóa, hoặc giữ cung điện trờI, hoặc giữ địa luân, hoặc làm mưa gió. 

Dạ xoa: tiếng phạm (Yaksa), dịch là Dõng Kiện, Bạo Ác hay Thiệp Tật, một loài quỷ rất hung mãnh, bay đi mau lẹ, có phận sự giữ cung khuyết, cùng thành trì của trời. 

Càn thát bà: tiếng phạm (gandharva) dịch là Hương ấm, nhạc thần của trời Đế Thích, dùng mùi thơm làm thức ăn. 

A tu la: tiếng phạm (Asura) dịch là Phi Thiên, một loài thần có phước đức của trời mà đức không bằng trời, có thần thông biến hóa song thân hình thô xấu, vì kiếp trước hay sân hận. 

Ca lâu la: tiếng phạm (garuda), dịch là Kim Súy Điểu, một loại chim thần cánh có lông sắc vàng tốt đẹp, hai cánh xòe ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có thần thông biến hóa. 

Khẩn na la: tiếng phạm (kinnara) dịch là Nghi Nhơn, một loại thần giống người nhưng không phải là người vì trên đầu có sừng, ca múa rất hay, thường tấu pháp nhạc và ca múa cho trời Đế Thích nghe. 

Ma hầu la già: tiếng phạm (mahoraga) dịch là Đại Mãng, hay Địa long tức là thần rắn. 

TỪ THIÊN, LONG CHO ĐẾN MA HẦU LA DÀ TÁM LOÀI GỌI LÀ BÁT BỘ


Nhơn phi nhơn: loại quỉ thần hình như người mà không phải là người, hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt. Đây cũng là danh xưng chung cho bát bộ quỷ thần vì họ không phải là ngườI mà biến ra hình ngườI đến nghe Phật thuyết pháp. Kinh Xá Lợi Phất vấn nói: “Bát bộ đều là phi nhơn”. 

(18) Thiết vi: tên dãy núi thuần bằng sắt, có 4 hạng thiết vi. Hạng thứ nhứt bao vây một tiểu thế giớI (gồm một núi Tu Di, bốn đại châu và biển cả), hạng thứ nhì bao vây một tiểu thiên thế giới, hạng thứ ba bao vây một trung thiên thế giới, hạng thứ tư bao vây một đại thiên thế giới. 

(19) Tu Di: tiếng phạm (Sumeru) dịch là Diệu Cao, tên một tòa núi đứng giữa bốn đại bộ châu, vì do 4 chất báu tạo thành nên gọi là Diệu, và cao hơn các núi khác nên gọi là Cao. 



PHẦN BIỆT TỰ

 

Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng 10 phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều thành sắc vàng. Từ thiên cung, long cung cho đến cung điện của các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông nguồn, núi Thiết Vi, núi Tu Di, cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và châu báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện. 

Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ Tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra.

 

 

Kệ rằng:

 

 

Ai thành chánh-giác trong ngày nay?

Khắp phóng ánh sáng như thế này.

Mười phương sát độ thành sắc vàng,

Cả cõi Đại-thiên cũng như vậy.

 

Ai được tự tại trong ngày nay?

Phổ diễn Thần-lực ít có nầy.

Không ngằn cõi Phật đều rung động,

Cung điện Long-thần cũng lung lay.

 

Sức Thần-thông này ai làm ra?

Là ánh quang minh đấng Phật-đà,

Là của Bồ-tát, đại Thanh-văn,

Hay trời Đế-thích cùng Phạm, Ma?

 

Nay trong chúng hội đều sanh nghi,

Chẳng biết đây là Nhân-duyên gì?

Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính,

Hướng trông về ngôi Đại-từ-bi. 

      

 

II

 PHẦN CHÁNH TÔNG

 

Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát: 

'Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế'. 

Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa. 

Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú (20) để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn. 

Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng: 

Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt. 

Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất 10 phương rung động 6 cách (21), ngàn đức Phật trong 10 phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng 10 phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế (22) trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di (23) hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

 

Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau biết tất cả pháp. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được mắt trí huệ. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau độ các chúng sanh, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được phương tiện khéo. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau lên thuyền bát nhã. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm được qua biển khổ, 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau được đạo giới định. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm lên non Niết Bàn. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con mau về nhà vô vi. 
Nam mô đại bi Quán Thế Âm, 
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. 
Nếu con hướng về nơi non đao, 
non đao tức thời liền sụp đổ. 
Nếu con hướng về lửa, nước sôi, 
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt. 
Nếu con hướng về cõi địa ngục, 
địa ngục liền mau tự tiêu diệt, 
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ. 
Ngạ quỷ liền được tự no đủ, 
Nếu con hướng về chúng Tu La, 
Tu la tâm ác tự điều phục, 
Nếu con hướng về các súc sanh, 
súc sanh tự được trí huệ lớn.

 

Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24), kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử. 

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài (25) tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ (26) sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch (27), báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28), làm nhơ phạm hạnh (29), bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau. 

Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Thế nào là 15 việc chết xấu?

 

1. Không bị chết do đói khát khốn khổ. 
2. Không bị chết do gông tù đánh đập. 
3. Không bị chết vì oan gia thù địch. 
4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau. 
5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại. 
6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn. 
7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy. 
8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc. 
9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại. 
10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn. 
11. Không bị chết do té cây, té xuống núi. 
12. Không bị chết bởi người ác trù ếm. 
13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại. 
14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân. 
15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.

 

Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.

Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt? 



1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành. 
2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành. 
3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt, 
4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành. 
5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ. 
6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục. 
7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới. 
8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa. 
9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ. 
10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ. 
11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt. 
12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện. 
13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ. 
14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp. 
15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.

Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ. 

Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú màu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng: 

 

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát

Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-Ra-Ni









Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da.1



Nam-mô a rị da2, bà lô yết đế thước bát ra da3, Bồ-đề tát đỏa bà da4, ma ha tát đỏa bà da5, ma ha ca lô ni ca da6, án7, tát bàn ra phạt duệ8, số đát na đát tỏa9.



Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da10, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà11.



Nam-mô na ra cẩn trì12, hê rị ma ha bàn đa sa mế13, tát bà a tha đậu thâu bằng14, a thệ dựng15, tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà già16, ma phạt đạt đậu17, đát điệt tha. 





Án18, a bà lô hê19, lô ca đế20, ca ra đế21, di hê rị22, ma ha bồ-đề tát đỏa23, tát bà tát bà24, ma ra ma ra25, ma hê ma hê, rị đà dựng26, cu- lô cu-lô kiết mông27, độ lô độ lô, phạt xà da đế28, ma ha phạt xà da đế29, đà ra đà ra30, địa rị ni31, thất Phật ra da32, dá ra dá ra33.



Mạ mạ phạt ma ra34, mục đế lệ35, y hê di hê36, thất na thất na37, a ra sâm Phật ra xá-lợi38, phạt sa phạt sâm39, Phật ra xá da40, hô lô hô lô ma ra41, hô lô hô lô hê lỵ42, ta ra ta ra43, tất rị tất rị44, tô rô tô rô45, bồ-đề dạ bồ-đề dạ46, bồ-đà dạ bồ-đà dạ47, di đế rị dạ48, na ra cẩn trì49, địa rị sắt ni na50, ba dạ ma na51, ta bà ha52.



Tất đà dạ53, ta bà ha54. Ma ha tất đà dạ55, ta bà ha56. Tất đà dủ nghệ57, thất bàn ra dạ58, ta bà ha59. Na ra cẩn trì60, ta bà ha61. Ma ra na ra62, ta bà ha63. Tất ra tăng a mục khê da64, ta bà ha65. Ta bà ma ha, a tất đà dạ66, ta bà ha67



Giả kiết ra a tất đà dạ68, ta bà ha69. Bà đà ma yết tất đà dạ70, ta bà ha71. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ72, ta bà ha73. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ74, ta bà ha75.



Nam-mô hắt ra đát na, đa ra dạ da76.



Nam-mô a rị da77, bà lô yết đế78, thước bàng ra dạ79, ta bà ha80.

Án tất điện đô81, mạng đa ra82, bạt đà dạ83, ta bà ha84.

 


Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, 10 phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm (30), có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng bồ đề.

Khi ấy Đại Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch vớI đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe. 

Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương: 

Ông vì phương tiện lợI ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua. 

Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành. 

Phạm vương thưa: Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên. 

Bồ tát lại nói tiếp: Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối vớI chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ. 

Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:

Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ (32) 
Ô sô quân đồ ương câu thi (33), 
Bát bộ lực sĩ, Thưởng ca la (34), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Hê Na La Diên (35), 
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La (36) 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La (37), 
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La (38), 
thường theo ủng hộ bên hành giả 
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La (39), 
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La (40), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tất Bà Dà La Vương (41), 
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La (42), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La (43), 
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La (44), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam (45), 
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na (46), 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương, 
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực (47), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương (48), 
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn (49), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương (50), 
28 bộ đại tiên chúng, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La (51), 
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà (52), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà (53), 
Bà Dà La Long, Y Bát La (54), 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, 
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, 
thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần 
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà (55), 
thường theo ủng hộ bên hành giả.

Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ ngườI thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu ngườI đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa. 

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì ngườI tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:

Hành giả đi trong núi đồng vắng, 
gặp những cọp sói, các thú dữ, 
rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng. 
Tụng tâm chú này khỏi bị hại. 
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ, 
những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt (56), 
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn 
nghe tụng chú này tự lánh xa. 
Nếu bị quân trận giặc bao vây, 
hoặc gặp người ác đoạt tiền của, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
giặc cướp khởi lòng tự thương xót. 
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt, 
gông, cùm trói buộc, giam ngục tù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
vua, quan tự mở lòng ân xá. 
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc, 
uống ăn để thuốc muốn hại nhau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
thuốc độc biến thành nước cam lộ, 
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản, 
khổ vì ma quái làm ngăn cản, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
quỷ tà sợ trốn sanh an ổn, 
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc, 
nóng bức, khổ đau sắp mạng chung, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu, 
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc, 
ung sang lở lói nhiều khổ đau, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
khạc ra ba lần hơi độc mất, 
chúng sanh đời trược khởi lòng ác, 
trù ếm hại cho thỏa oán thù, 
chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
liền phản trở lại người trù ếm, 
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp, 
lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo, 
ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con, 
ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy, 
nếu hay xưng tụng chú Đại Bi, 
lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt, 
công lực Đại Bi chỉ lược qua, 
nếu ta nói hết không cùng kiếp!

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng: 

Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗI một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu. 

Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì 4 quả sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề. 

Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi,nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn! 

Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. 

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền địnhvì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp (57) không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng! 

Đức Phật bảo Phạm vương: 

- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y n

hư pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu. 

Phép kiết giới như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy 4 phương làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả. 

Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà ra ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức. 

Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà ra ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện. 

- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo. 

Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà ra ni này. 

Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo: 

- Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn 7 ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui. 

Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng 7 ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp. 

Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui. 

Ngài A Nan lại bạch Phật rằng: 

- Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào? 

Đức Phật bảo: - Thần chú này có những tên như sau: 

1. Quảng đại viên mãn đà ra ni. 
2. Vô ngại đại bi đà ra ni. 
3. Cứu khổ đà ra ni. 
4. Diên thọ đà rani. 
5. Diệt ác thú đà ra ni. 
6. Phá ác nghiệp chướng đà rani. 
7. Mãn nguyện đà ra ni. 
8.Tùy tâm tự tại đà ra ni. 
9. Tốc siêu thánh địa đà ra ni. 

Ông nên y như thế mà thọ trì. 

 

 

III

PHẦN LƯU-THÔNG

 

 

Ngài A Nan lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế? 

Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn. 

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương). 

Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại. 

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành (dược kiếp bố la hương tức Long não hương). 

Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết. 

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau. 

Nếu bị bịnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước. Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ (P.C: Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay 3 thứ trái khác hoặc 3 thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm). 

Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý. 

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu. 

Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc. 

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân (58) và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng). 

Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị chứng thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành. 

Nếu phụ nhơn sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh. 

Nếu phụ nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không ra, cũng uống thuốc này (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất) 

Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương). 

Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây. 

Nếu bị bịnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành. 

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh sẽ lành. 

Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau. 

Nếu bị bịnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ). 

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội. 

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ. 

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện. 

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ. (PC: Mỗi thời tụng 1080 biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều). 

Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt trong lửa (A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử, một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi). 

Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều hoan hỉ (hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng). 

Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút. 

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau. 

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại. 

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện. 

 

( P.C: Những chân-ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang ngắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một. Muốn cầu điều gì, đọc chân-ngôn theo điều ấy). 

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEilNteQWAX06hs66sYbZeAhTV87y_zd6jR5bBzKUnud-gNsfYDZ7ch1suoWlXFpwQS47ROYsb3VDrSHYKa6lOoEznNIBhjUbWHkVegGQX9Eogxx8nRuyWEgner0KqrkJtiDd9RTtDaw/s320/HT+TUYEN+HOA-42+THU+NHAN.jpg

 

 

 

Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì

Chấn động tam thiên thế giới thì

Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa

Từ bi phổ độ Diêm phù đề







Nam-mô Thiên-Thủ Thiên-Nhãn Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Quảng-Ðại Viên-Mãn

Vô Ngại Ðại-Bi Tâm Ðà-Ra-Ni

 

 



42 Thủ Nhãn Ấn-Pháp



 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhlnt6gmLHQkJj4FKefbSbuNiSH7An_Feq5deu7GEN19JkTcWsWbENoK_rOdtSB8Sl-jCfBvp1M43odnB4F-GdasH94Q2XJtAUyg6kRqS6AnVpl6azwjuptO4w0K26DX5r2C-GcWpBg/s320/thunhan1.jpg

 

 

Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Nhứt

 

Ma Ra Ma Ra [25]

Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.



 


Kinh nói rằng: “Nếu Chúng-sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu đồ

                         dùng, nên cầu nơi Tay cầm Châu-Như-Ý.”

 

 

Thần-chú rằng: Ma Ra Ma Ra [25]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :



Thanh hương bảo đỉnh hóa tam thiên 

Như ý kim ngao du cửu uyên 

Thiện Tài Long Nữ tiếu huyên huyên 

Phật giáo diệu pháp nhữ yếu tham.


[

Hương thanh tịnh từ LƯ-HƯƠNG tỏ ra ba ngàn đại thiên thế giới.

Con rùa vàng mong muốn bơi qua chín vực thẳm.

Thiện Tài, Long Nữ cười ha ha!

Mau lên tham cứu diệu pháp Môn.


]

 

 

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgAVVImfFYA6HSqH442DSKOuxBw6vYdT5PcHaV5mgGyBojvKVLbCQKuWyY6OzEuZJiUD8J6sy9EbV2MxRup24P7Uzwr4gy9JG1oThsXl80lAE43dZ9f2mF30D_aCUnoVmulwqecBFAU/s320/thunhan2-8.jpg

 

 

Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai

 

Ma Ra Na Ra [62]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

 

  

Kinh nói rằng: Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi Tay cầm dây

                       Quyến-Sách.”

 

 

Thần-chú rằng: Ma Ra Na Ra [62]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Quyến sách thủ thị khổn ma thằng
Bàng môn quỉ quái nan độn hình
Câu lưu pháp bảo đa biến hóa
Trừ tà phù chánh bí văn linh.

[

Tay cầm dây QUYẾN-SÁCH để buộc loài ma.
Tà Môn qủi quái hiện nguyên hình.
Pháp bảo Câu lưu nhiều biến đổi.
Trừ tà ma hộ chánh pháp vừa “BÍ-MẬT” vừa “HIỂN-LINH”.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiLd19IAA17HygkOiQE1zkxYKx4VHqTaJd2pTZRb5MdXQmosWzY5huIbwJhdeqWTlTomIK4qbnDm7KZSSGlOVvZvaamXC4G53YwApacJAuH8JFLQrozKlIsp3tgBWo2ZDwhEX4d6Fpw/s320/thunhan3.jpg

 

Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba

 

Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi Tay cầm Bát-Báu.”

 

Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Hê Lỵ [42]


Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Bát vạn tứ thiên bệnh ma triền
Bảo bát cam lộ khả ly thuyên
Bồ đề tát đỏa tự tại quán
Từ bi phổ độ hóa hữu duyên.


[

Tám mươi bốn ngàn bệnh ác “MA” lâm thân,

Nước “Cam-lộ” trong BÌNH  “Bảo-bát” có khả năng tiêu trừ tất cả.

Quán-Tự-Tại Bồ-tát Ma-ha-tát,

Từ bi cứu độ người có duyên.

 

]

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhXdbC13wjVZK3Mi0MT9B96fRhS5ER7-rxdCWns-88UqfIsSR3m2_1QMB4XRsfGueRlyUINb31BaaDv1MtuGpAK0q8TViXKhOu2BhWT_2NhSFCQKPfh3vQeVN3UWZyF9tB47NCEj7za/s320/thunhan4-12.jpg

 

Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Tư

 

 

Địa Rị Sắt Ni Na [50]

 

Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,

                 đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi Tay

                      cầm Kiếm-Báu.”

 


Thần-chú rằng: Địa Rị Sắt Ni Na [50]

Chơn-ngôn rằng: Án-- đế thế đế nhá, đổ vỉ nảnh,
                                   đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.


Kệ tụng :


Bảo kiếm phi quang thấu tam tam
Ly Mỵ Vọng Lượng các tuân tuyên
Pháp giới yêu khí tòng tư tức
Hoằng dương chánh giáo độ càn khôn.


[

Bảo kiếm phóng quang khắp “TAM TAM”,

“Ly Mỵ Vọng Lượng” y theo lệnh của NGƯỜI cầm Bảo kiếm.

Pháp giới nhờ “QUANG MINH” soi đến, nên yêu khí được tiêu trừ.

Dùng Bảo kiếm để Hoằng dương chánh giáo độ CÀN KHÔN bằng “QUANG MINH”.  

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEheRLaNO4LBvIrORu7E9nK33M4D_thyphenhyphenDQYNdfbxoGgypdoJCvK10srAOTTS9esBa7ANM86IzC6jS8YRcwkk053LH33oTaLQ4vn_0lUvob3-e9akolHdzU9syXZynpSvWgYFyeCoF1Y0/s320/thunhan5.jpg

 

Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Năm

 

Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]

Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.



Bản Hán-văn thiếu 2 chữ 
“nể bệ”.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma và thần, nên cầu nơi Tay cầm cây

                      Bạt-Chiết-La.”



Thần-chú rằng: Giả Kiết Ra A Tất Đà Dạ [68]

Chơn-ngôn rằng:  Án-- nể bệ nể bệ, nể bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:



Pháp lôi cao kình cảnh ngoan minh
Pháp cổ phủ xao chấn quý lung
Pháp vân phổ âm lợi vạn vật
Pháp vũ biến sái nhuận quần sinh.


[

Pháp Bạt Chiết La như Sấm Sét thức tỉnh người ngu tối

Pháp Bạt Chiết La như Đánh Trống làm chấn động kẽ điếc mù

Pháp Bạt Chiết La như Mây Che trở cho vạn vật được mát mẽ

Pháp Bạt Chiết La như Mưa rưới nước Cam Lồ mang lại sự sống cho quần sanh.


]

Bạt-Chiết-La là âm tiếng Phạndịch là Kim-cang-xử, đây cũng là một loại chày Kim-cang.

 

 https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi9SpzEFtHRQAguKNpGLjdMRiUrP6uRfGLrDr-GHGIFidLZGa0ScNu9Ep5mwhNnNeK_1xpZs9iuTUGhOj9U7E5zLFKJ__zHgRNz-vmUkrXzm0GZveY1e8NDuIVHCquo2aQ5WndKG48j/s320/thunhan6.jpg

Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Sáu

 

Ta Ra Ta Ra [43]

Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.






Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi Tay cầm Chày

                      Kim-Cang.”

 


Thần-chú rằng: Ta Ra Ta Ra [43]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra chỉ-nảnh, bát-ra nể bát đa dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Hàng phục oán ma kinh quỉ thần
Vũ trụ cát tường chánh khí tồn
Hộ pháp vệ giáo công huân phổ
Tăng già hợp hòa đạo dịch hưng.

 

[

Hàng phục Oán ma, kinh sợ các qủi thần.

Chánh pháp còn trụ ở thế gian, thì Vũ-trụ sẽ không bị hủy diệt.

Bảo hộ chánh Pháp, thì công đức không cùng tận.

Tăng gìa hòa hiệp, thì đạo trường sẽ phát triển mạnh mẽ.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgs9Tk3q3ZhRmiuyemtvZpJA_ZFAvKN-hwvtzjy-5tm9XMSXl13xHqXy-xqAhxjnD7ksf1Df-aLQURA_8YGsPGGehF9lwz6jBuM3FZsxMHTuyIRSReVFbecqDGGqJHZ3q2Jt8LqMJZ1/s320/thunhan7.jpg

 

      Thí Vô Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Bảy

 

 

Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]

Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.



Bản Hán-văn thiếu chữ 
“phạ”.

 

 

 

Kinh nói rằng:” Nếu muốn trừ TÁNH ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi
                      Tay Thí-Vô-Úy.”


Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì Bàn Đà Ra Dạ [72]
Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra nẳng dã, hồng phấn tra.



Kệ tụng:

Thu tận thiên ma pháp bảo kỳ
Nghiệp chướng tiêu trừ thú Bồ đề
Vạn bệnh hồi xuân tăng phước  thọ
Thí vô úy thủ độ quần mê.


[

Thật kỳ lạ Pháp bảo diệu kỳ, thiên ma “ Y LỆNH” không dám lại gần.

Ai trì “ TAY THÍ-VÔ-ÚY” thì nghiệp chứng tiêu trừ, Bồ-đề Tâm kiên cố.

Vạn-bệnh được lành, Phước-Thọ tăng trưởng.

Tay-mắt Vô-úy-thí, cứu độ chúng sanh không còn “TÁNH” sợ hãi bất an.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhOSNohfjVPMYKISzQsS46-VYD8iAuiPsVlJIizdJXwvYzfSf8X4dajQq8nOwVY2eeFKkUrhoh32IHHAPj5C857cQ7qYZe6cx1-f6RWy1VDE_M03o_Kh5GuKB2f4k0K5DJ9qkMh5Mqq/s320/thunhan8-4.jpg



Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Tám

 

 

Thất Phật Ra Da [32]

Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.





 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi Tay cầm

                      châu Nhựt-Tinh-Ma-Ni.”

 

Thần-chú rằng: Thất Phật Ra Da [32]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Tâm địa quang minh chiếu thế gian

Lục căn thanh tịnh hỗ dụng huyền

Ngu si chuyển thành chân trí huệ

Hắc ám biến tác cự hỏa diệm.

[

Tâm địa bất động, thì phát ra quang minh chiếu soi tới các nơi ẩn sâu tối tâm nhất.
Sáu-căn thanh tịnh, thì làm việc thay nhau mà trí thế gian không thể hiểu được.
Một niệm vô-minh không sanh, thì trí huệ chơn tâm hiện tiền.
Một ngọn lửa ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ”, thì “3 A TĂNG KỲ KHIẾP” không còn tối đen âm u.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi24buUnMQn8FvbMqJbYf6wLFuZPewBoYNZDHimS_0oD-MinNzqLUNW8Fi-YwvJ9EP4GTsURgcAhg-7dr2casc29IsUs6gOpHdZckNuWxLCGsHGVESvQ_crKvoKmbHHxoSDFjuQZvI0/s320/thunhan9.jpg

 

Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Chín

 

 

Độ Lô Độ Lô [28]

Án-- tô tất địa yết rị, tát-phạ hạ.



 

Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi Tay
                       cầm châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.”

 

Thần-chú rằng: Độ Lô Độ Lô [28]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tô tất địa yết-rị, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.


[

Một ít chất độc cũng quấy rối, làm khổ một người mỗi ngày.
Bệnh nằm trên giường còn bi thảm hơn là bị giam cầm.
Nguyệt-tinh Ma-ni Thủ Nhãn là “THUẦN-DƯỢC” trị được bịnh nóng nải, buồn rầu.
Làm cho chúng sanh trong Trời-đất, được Tiêu tai họa, thêm tuổi thọ.


]

Ma-ni là tiếng phạn, dịch là châu-bảo, ly-cấu, như-ý. Vì rất qúy nên gọi là châu-bảo; vì trong suốt sáng rỡ nên gọi là ly-cấu, vì tùy sở cầu đều biến hiện nên gọi là như-ý.



https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgk5_ks5c2w_gmBX11VuaRyoWUJFKVrRalCIZH2az_0ePIdsSt3K2b0tlMHW9_axik7JCJA8tDFa9sdo3CHPn9RwujJ_ZjEy0noLNBCbXng16RZMsl1FNIH5HVgxk8pP8231Tvhxx9w/s320/thunhan10.jpg

 

Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười

 

 

Phạt Sa Phạt Sâm [39]

Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.



 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi Tay cầm Cung-Báu.”

 



Thần-chú rằng: Phạt Sa Phạt Sâm[39]

Chơn-ngôn rằng: Án-- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Tướng quân anh dũng mạnh vô địch

Bảo cung tại thủ xạ gian di

Khải toàn cao xướng vinh quan bổng

Ích chức gia thăng lạc hữu dư.


[

Tướng quân vô địch, trăm trận trăm thắng, không có đối thủ.
Tay cầm Bảo-cung bắn những kẻ gian ác hại người, hại vật.
Ca khúc chiến thắng trở về rồi được làm quan, lên chức bổng lộc rất nhiều.

Chức vị được gia tăng, thì có khả năng mang lại thái bình hạnh phúc cho tổ quốc.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjaaQnUqSW-t8R_qeu82tnX3Hc888-kR4o3HYTNXwbdySmnetoupfkwCDgaMY2e0SeIqrgSm9NUvE_HRN33ECJxCcXVw-FczCrG3GpZCSjse2YuN1dwmCm4mD44L7BUe_BBnKoUmSz9/s320/thunhan11.jpg

 

Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Một

 

 

Ba Dạ Ma Na [51]

Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi Tay cầm Tên-Báu.”



Thần-chú rằng: Ba Dạ Ma Na [51]
Chơn-ngôn rằng: Án-- ca mạ lã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Tiễn xạ cường địch đảm lạc hàn
Khắc thù chí thắng thao tả khoán
Nhân Quý tướng quân bình liễu loạn
Khải ca cao xướng lạc quần thiên.


[

Bảo-tiễn “THẦN LỰC KHÓ SUY LƯỜNG”, cường địch khiếp sợ lạnh rung người.

Vì khiếp sợ mà qui hàng, nên “KHÔNG CẦN SÁT SANH”, cũng dành được chiến công.

Tướng Quân Nhân Qúy có tài thiện xạ, nên có công dẹp tan được giặc phản loạn.

Đất nước an bình, họ vui mừng ca hát reo hò, như là “ĐẠI HỘI ÂM NHẠC” ở trênTrời.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4qo5IodGytE2Xv9qstsQoTZHPgiYZzYM5TFtbshsEpAyMgvK_WTcxgUfjxv-cWzJ6Fgxuyw3ek1Ct8_2mUuO-8NIOZB1A29g3__frCXSaefEaU_MP_Nd_g1Jlai0n06qgGoosB5sx/s320/thunhan12.jpg

 

Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Hai

 

 

Mục Ðế Lệ [35]

 

Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,

                              mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,

        hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi Tay cầm cành
                      Dương-Liễu.”


Thần-chú rằng: Mục Ðế Lệ [35]

Chơn-ngôn rằng: Án-- Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa,
                                    mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà,
                                    hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.

[

Tay cầm cành dương liễu rưới nước cam-lồ làm cho các hạt giống nảy mần lên cây.
Người bệnh khổ vì sốt nặng cũng được mát mẽ.
Như cây khô héo gặp mùa xuân có cơ hội sống lại.
Chết mà không mất, thọ mạng được dài lâu.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEimPQ-VJYUQrEXl5LHK2TRWZJQraBDGvKhR-XQll9GZ7SfxSSuHvQpMsssTYo-fBn2MkyAgbutLN_8qxEmpMuFyZJWjbgE00egKzz_vzAbrnlS1omknPHCQmoXZSO5fscL86PLnJy8S/s320/thunhan13.jpg

 

Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Ba

 

 

Mạ Mạ [34]

Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế,

                               mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi Tay cầm cây        
                      Phất-Trần.”         
                     

Thần-chú rằng: Mạ Mạ [34]
Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá,
                                 nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Túc thế sát nghiệp trọng như sơn
Dục tu thánh đạo chướng vô biên
Hạnh hữu đại bi bạch phất thủ
Khinh tảo số số chúng nan quyên


[

Từ vô-luợng kiếp đến nay, Ta đã tạo “nghiệp-sát”, nên tội trọng nặng như núi,

Nay muốn tu “thánh đạo”, lại bị vô-biên nghiệp-chướng ngăn cản, rất khó tu hành.

Lành thay!!!  Gặp được “Cây Phất-Trần” đại từ đại bi của Bồ-tát Quán-Thế-Âm,

Quét sạch nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của Ta đã tạo.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjnKvd6iOQXkCKwWR4hjsIhl9Arg81TMyy0v23Ev-9MsOlw844d-jCHPisJoBB97ntlXt88WJjGBvh6dDkmVXSlzjFefOIhCFGh0OesjKrAqJrG6dBQn8hQC6u9NUlEpGnTpegYKzDs/s320/thunhan14.jpg

 

Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Bốn

 

Na Ra Cẩn Trì [49]

Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn tất cả người trong quyến-thuộc được hòa thuận nhau, nên   
                      cầu  nơi Tay cầm cái Hồ-Bình.”

 


Thần-chú rằng: Na Ra Cẩn Trì [49]

 

Chân-ngôn rằng: Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Hồ-bình cam lộ nhuận quần manh
Cô mộc phùng xuân mậu hựu xương
Vạn bệnh kham trừ hiển đại dụng
Sinh sinh hóa hóa diệu vô phương.

[

Nước Cam-lộ trong Hồ-bình làm cho hữu-tình và vô-tình đều đồng viên Chủng trí

Như cây khô là “VÔ-TÌNH” mà gặp mùa Xuân, còn đâm chồi lên cây tươi tốt

Thật là “Linh-Dược” có thể trừ được vạn bệnh cho chúng-sanh “HỮU” tình và “VÔ” tình

Làm cho sự sống thay đổi sinh sinh hóa hóa kỳ diệu không thể đo lường được.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIydbJ3UbBluiPYYN6M9CGUG__qjM6nlQJWoNkzEq8LEF5gmyafmk-SJG7WUxJ0jSYb6gBKGVWrzDX7AiEFSe5BeHMqIUdpeXAIBVKl4XAyhq0AWw7_g8_03fdx0_PFEOXQahY_Qzm/s320/thunhan15.jpg 

   

Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Lăm

 

 

Phạt Xà Da Ðế [28]

 

Án-- dược các sam nẳng, na dã chiến nại-ra,

               đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi

                      Tay cầm cái Bàng-Bài.”


Thần-chú rằng: Phạt Xà Da Ðế [28]
Chơn-ngôn rằng: Án-- dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra,
                                   đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Sài lang hổ báo mạnh hựu hung
Sư tử hùng bi cánh tranh nanh
Bàng bài cao cử giai hồi tỵ
Tuy phùng hiểm lộ diệc khang bình.


[

Hổ, Sói và Beo mạnh lại còn hung ác.
Sư-tử, Gấu và “BI” thậm chí còn dữ tợn hơn.
Khi Bàng-bài giơ lên cao, thì chúng lẩn tránh xa, mất cả oai phong thường ngày.
Cho nên, dù “Ta” đi trên con đường hiểm nạn, vẫn cảm thấy bình an vô-sự.


]



Con “BI” to hơn con gấu, lông vàng phớt, cổ dài, chân cao, đứng thẳng được như người.

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiNYstJS7jEUCtghxK8HfMaD_mYx2tPIbde1IKSqsQeHrqmgjXZtIYRLYVCfSJRF59Wge0P9Be8BbO6KgQ1Bk0quib5IDcGpJR-Q64c3WYs-xkN891DlPl2YZjxjP9aNIVXvYQiRG09/s320/thunhan16.jpg

 

Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Sáu

 

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.

 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên
                      cầu nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.”

 

Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân

[

Bị tra tấn làm cho nhận tội, cho đến Qủy Thần cũng kinh sợ than khóc.
Một Người bị gian trong tù, dù vô tội cũng rất khó minh oan.
Nếu muốn thoát khỏi cảnh khổ đau “TÙ NGỤC” oan ức,
Thì nên tu Tay-mắt cầm Cây Phủ-Việt, sẽ được an thân ra khỏi “NHÀ TÙ”.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi19IysADVN1Qc6B9wk76vxx_-XtOk7DKfQtHwn4k27JXu8tLABHI61xWKlEtHmqTyywWzh1ox5vYcijcN_k5XI5EIl0upjAcanzO3RYhJGsWqYyyYGd8Q6QBgcD7unofzj27KEucjO/s320/thunhan17.jpg 



Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Bảy

 

 

Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]

Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi Tay cầm chiếc

                       Vòng-Ngọc.”

 

 

Thần-chú rằng: Hô Lô Hô Lô Ma Ra [41]


Chơn-ngôn rằng: Án-- bát na hàm vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Kinh thiên động địa dịch quỉ thần
Hô phong hoán vũ đàm tiếu trung
Nam cung nữ kính đồng lễ bái
Tân chủ hòa hợp đạo đại hưng.


[

Trời đất rung động sáu cách, làm kinh sợ Qủy thần, nên họ y theo lịnh mà làm.

Gọi gió, kêu mưa, như là chuyện vui đùa.
Nam Nữ cung kính, đồng lễ bái.
Tứ chúng hòa hợp, thì Phật-pháp được phát triển mạnh mẽ.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhNlk36aVfY1cEsx8SXJ8KtRiVPV0ZtjntLBevG9_bVfDosIvGArkdvSXe5W088VG22da_nbu-MiALOdmE9Hrk4bM4c8X8PhMu1_Et_t47EPLjGZ_KiWS3CSMt7CO0fVprVL34FchaE/s320/thunhan18.jpg

 

Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Tám

 

Kiết Mông [27]

Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi Tay cầm
                      Hoa-Sen-Trắng.”


Thần-chú rằng: Kiết Mông [27]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, vị ra dã, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:


Bạch sắc bạch quang bạch liên hoa
Thiện công mỹ đức đại vô nhai
Ư thử thủ nhãn cần tu tập
Hà sầu bất chí pháp vương gia.


[

Hoa sen trắng thì phóng ánh hào quang màu trắng,
Khi chạm đến “Thân-tâm”, thì Công-đức tăng trưởng, không cùng cũng không tận.
Nếu một người siêng năng “TRÌ” thủ nhãn nầy,
Thì còn lo gì không đến được nhà của đấng Pháp Vương?


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjoYiR8Pq2YgulJn2CBHVK-5A3gGDggTCl1zvteb3LrRewmvS0v-kTWAbKQ5Y2vNn30lN0OeOalUFsbpTQvGKj-_IAO_HoiJEf5KDtuLejHIn3maZ_VKXqkG8qKerEAd-shsHVoKD-q/s320/thunhan19.jpg

 

Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Mười Chín

 

 

Rị Ðà Dựng [26]

 

Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra,

                bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.



 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh-độ, nên cầu nơi Tay cầm  

                        Hoa-Sen-Xanh.”


Thần-chú rằng: Rị Ðà Dựng [26]

Chơn-ngôn rằng: Án-- chỉ rị chỉ rị, phạ nhựt-ra, bộ ra bạn đà, hồng phấn tra.


Kệ tụng:


Niệm Phật niệm pháp niệm thánh tăng
Thập phương tịnh độ bảo liên đăng
Hoa khai Phật hiện viên giác quả
Nhậm vận lai vãng sát na trung.


[

Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm thánh Tăng.

Mười  phương tịnh độ được vãng sanh.

Hoa khai thấy Phật chứng “VÔ-SANH”.

“TỰ-TẠI” QUA LẠI MƯỜI PHƯƠNG TỊNH ĐỘ TRONG KHOẢNG MỘT SÁT-NA.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg8jI_kK8fd0mYj1OGI61UdoFVNCzd_mLU3Gn9Vb3QTYUkJhah5ZnyVqLSUg7MWQ7NZHt8z6cXzLjbw04MP8ZyoVXkrrUyrcMd-OWyMNC16vJtF6F6KseyytJ5DkPI9inVuah_dnDC1/s320/thunhan20.jpg

 

Bảo-Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi

 

Thất Na Thất Na [37]

 

Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,

                              phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.



 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi Tay cầm cái Kính-Báu.”



Thần-chú rằng: Thất Na Thất Na [37]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- vĩ tát phổ ra, na ra các xoa,

                                   phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.



Kệ tụng:

Đại viên kính trí cùng pháp nguyên
Chiếu yêu kính lý tróc quái tiên
Diêm vương kính trung ác nghiệp hiện
Pháp bảo kính thủ chủng trí viên

[

Đại viên cảnh trí thông suốt cùng tận cội nguồn của tất cả Pháp.

Trong “KÍNH CHIẾU YÊU”, Yêu-quái hiện nguyên hình, tùy ý ta bắt giữ hoặc tha đi.

Như KÍNH của DIÊM VƯƠNG, ác nghiệp trong một đời đều hiện, không chối cải được.
Tu Bảo Kính Thủ Nhãn Ấn Pháp, thì thành tựu “NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ.

 

]
 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTfWgpiKv696hEA3wLwwPPlH-VbTjhhiAfDZlcCj752ag9SSlIF1r5opP8333iUnJCOyZhJ8syGdzMBWmV3tTB56asWpyT24p2TOq0OgGyBbaZV6UMqmkqQLtZVBSSRC7xwv9iyolH/s320/thunhan21.jpg

 

Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Mốt

 

Phật Ra Xá Da [40]

Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.

 

 

 

 

( Không hiểu tại sao trong bản dịch của HT. THÍCH THIỀN-TÂM,

không có 2 chữ “CA RA”? )

 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi Tay

                      cầm Hoa-Sen-Tím.”



Thần-chú rằng: Phật Ra Xá Da [40]

Chơn-ngôn rằng: Án-- tát ra tát ra, phạ nhựt-ra ca ra, hồng phấn tra.


Kệ tụng:

Vi diệu nan tư tử liên hoa
Bồ đề tốc chứng giải thoát pháp
Diện kiến thập phương Phật-đà-da
Tùng kim bất lạc lục đạo gia.


[

Tử Liên Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp, vi diệu không thể “NGHĨ BÀN” mà hiểu được,

Được Pháp Giải-thoát nầy, thì mau chứng qủa Bồ-đề của chư PHẬT.

Gặp được chư Phật ở 10 phương Tịnh-độ,

Thì “TỰ-TẠI” vào Lục-đạo, cứu độ tất cả Chúng-sanh “MÀ KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.”


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEh65-cCLdrYiUCfvwA76snK3Ang0T9TWNjyC6N15lWkN3-Xz2vrl6DII9JKgQQdlbCnjw732j2JufXUUKljOeZG-gO7QXyn5ttMqr3XhflrdSde4hz-MLdPiYafao2S9PPd2-1MDl4o/s320/thunhan22.jpg

 

Bảo-Khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Hai

 

Tất Đà Dủ Nghệ [57]

Thất Bàn Ra Dạ [58]

 

Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,

  yết nẳng hàm, ra hồng.




Kinh nói rằng: “Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi Tay cầm cái

                      Bảo-Kiếp.”


Thần-chú rằng: Tất Ðà Dủ Nghệ [57]
                        Thất Bàn Ra Dạ [58]

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, bá thiết ca rị,
                                   yết nẳng hàm, ra hồng.


Kệ tụng:


Thiên thượng chúng bảo diệu nghiêm trang
Địa trung phục tạng hóa ngu manh
Hải lý long cung kỳ trân hiện
Bảo khiếp thủ nhãn phóng hào quang.


[

Trên các cõi Trời dùng vô-lượng diệu bảo để trang nghiêm cảnh giới,

Trong “Tâm-Địa” đầy đủ GIỚI, ĐỊNH, HUỆ và THẦN THÔNG để chuyển hóa quần mê.

Trong Long-cung ở dưới biển xuất hiện Kỳ-trân, thì có thánh nhân ra đời,

Cũng như Bảo khiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp phóng hào quang, thì có người đắc đạo.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhk-F7_sjTE2nfBZM9nETHYKuDVulQm7X6ZbcxGPaqQZpaJ2BkxXDVGVErhaTlk35q0hek6m6wrD3VWvkEuW91ayS4kAv9yQuA7Zze1sifjsyW5h8aMOHPCN7-Ph2YkWJm6lqd5BMI_/s320/thunhan23.jpg 



    Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Ba

 

Ma Hê Ma Hê [26]

Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.



 

 


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi Tay cầm hóa hiện
                      Mây-Ngũ-Sắc.”

 

 

Thần-chú rằng: Ma Hê Ma Hê [26]


Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, ca rị ra tra hàm tra.


Kệ tụng:


Vị đạo cầu tiên nguyện trường sinh
Thọ dữ thiên tề bất giảm tăng
Toại tâm như ý thông biến hóa
Ngũ sắc tường vân túc hạ đăng.


[

“ĐẠO TIÊN”, cầu trường sanh thì có, cầu “BẤT TỬ” thì không,

Tưởng rằng Thọ-mạng sánh bằng “TRỜI ĐẤT”, không tăng không giảm.

Dù có thần thông biến hóa toại tâm như ý, nhưng vẫn còn ở trong “TAM GIỚI” mà thôi.

Khi Trì NGŨ SẮC VÂN THỦ NHÃN, thì bỏ được ngã chấp, RA KHỎI TAM GIỚI.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgKznn-ocVkx1JbpabpriCVCuLPa22uTYKfk3kwTI1-FigqEl_-ny0VvnGuf15oRo-EPkuDwspkEZkliaCxB7Dw_7fmU4aEcmb_S3HLOA0BE7uz4wdXIEW1ZIZXsXVVWRMGK8m5O-4l/s320/thunhan24.jpg 

 

Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp

 Thứ Hai mươi Bốn

 

    Đà Ra Đà Ra [30]

  Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.

 

 

 

( Không hiểu tại sao trong bản dịch của HT. THÍCH THIỀN-TÂM, có thêm 1 chữ RA,

Phật tử tạm thời bỏ ra, chờ đợi các bậc THIỆN TRI THỨC nói rõ nguyên do sẽ thêm vào)

 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn sanh lên cõi Phạm-Thiên, nên cầu nơi Tay cầm bình
                      Quân-Trì.”

 

Thần-chú rằng: Đà Ra Đà Ra [30]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-ra, thế khê rô, tra hàm tra.

 



Kệ tụng:


Thanh tịnh vô nhiễm Đại Phạm Thiên
Thọ thắng diệu lạc phúc báo toàn
Đản năng trì thử quân trì thủ
Thân thân sinh bỉ thọ như sơn.

[

Cõi Trời SẮC GIỚI Đại Phạm Thiên, thanh tịnh vô nhiễm ly THAM dục.
Phước báo thù thắng diệu vô cùng, như còn khổ nạn vì HỎA TAI.
Nếu thường tu niệm QUÂN TRÌ THỦ.
Đời đời kiếp kiếp được trường thọ, không bị nạn khổ vì HỎA TAI.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjZ6srPNMAovoivUuWhHgXF_ve8dq-v86luA1vpcebgUmIKT-DSfVk2kdyI0OKNy5-2DVLLYfKxAl_RCz1hw2S_qgZmdDRBSRuYzJJmZxwN0Iz1j0BeJwTYTpiGtzWRtUgrx-u-Ihl1/s320/thunhan25.jpg



Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Lăm

 

Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]

  Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.

 


Kinh nói rằng: “Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi Tay cầm
                       Hoa-Sen-Hồng.”

 

Thần-chú rằng: Bà Đà Ma Yết Tất Đà Dạ [70]
Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết lệ, tát-phạ hạ.

Kệ tụng:

Chư thiên khoái lạc thắng nhơn gian
Phát nguyện vãng sanh đa trở nan
Đản tự thủ trì hồng liên hoa
Đàn chỉ vãng sanh phi đẳng gián.

[
Khoái lạc Cõi TRỜI hơn nhơn gian,
Muốn được sanh về thật gian nan.
“HỒNG LIÊN HOA THỦ” thường trì niệm,
Khoảng tay co duỗi được sanh về.
]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjBY0_a8DobaD3-3Pus1HCaboDDJhZ335ZhHnc8EN084d96mKCUfF_9K7_E740WaCHMJn2d4s9GpQF0rPUU0BCJij8T9G9fZIPq2Lcx4PsUR04B-YKvJcjG_yKIgy-ys7aF7ylzALEK/s320/thunhan26.jpg

Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Sáu



Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29] 

Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

 hồng phấn tra.



 

 Kinh nói rằng: “Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi Tay

                       cầm cây Bảo-Kích.”

 

Thần-chú rằng: Ma Ha Phạt Xà Da Đế [29]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thẳm muội dã, chỉ nảnh hạ rị,

                                    hồng phấn tra.

 

 

Kệ tụng:

 

Nhân Quý chinh liêu dũng vô địch

Nê hà cứu giá lập công kỳ

Cao ly đầu hàng triều thánh đế

Tha phương nghịch tặc tuyệt tông tích.

 

 

]

 

TIẾT NHÂN QÚY, Dũng Tướng vô địch, viễn chinh tới thành LIÊU NINH,

Không nại nguy hiểm mất mạng, Cứu VUA nên lập được kỳ công.

Thuần phục quân CAO LY, đất nước an bình VUA được tôn xưng là THÁNH ĐẾ,

Bởi vì không còn tông tích của giặc NGOẠI XÂM phương khác nữa.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjWqFD1JIQdBJk-pmm_a0EpSnH58szFJv2M7dJwMpN-sKPYiEixiYyXAwvFH8fy1yZp9w7vPsP55gtlQ83DFWp7MiynTdBNIc0VonJpbrM17vZTz__B_tjsaS9eygHNPUIhDf66blzp/s320/thunhan27.jpg

 

Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Bảy

 

Cu-Lô Cu-Lô [27]

 

Án-- thương yết-lệ,

                                            mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



 

 

Lời bàn:

Trong thủ nhãn thứ 26, thì HT. THIỀN-TÂM dịch là
 thẳm , theo PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG xuất bản năm 2008, nhưng ở thủ nhãn thứ 27 thì HT. lại dịch là thảm. Phật tử không dám sửa lại vì chưa biết rõ nguyên do. 

 

 



Kinh nói rằng: “Nếu muốn triệu tất cả chư thiên, thiện-thần nên cầu nơi Tay cầm ống                              Loa-Báu.”

        





Thần-chú rằng: Cu-lô Cu-lô [27]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- thương yết-lệ,

                                   mạ hạ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:

Pháp âm hưởng triệt chấn chư thiên
Nhất thiết thiện thần y triệu lệnh
Tứ phương kết giới thiên biến hóa
Long vương hộ vệ tại hậu tiền.

 

[

Pháp âm vang động khắp Chư-thiên,

Tất cả Thiện-thần theo lệnh triệu.

Bốn phương Kiết-giới theo TÂM-tưởng,

Vua-Rồng trước sau hộ hành giả.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgz7Tli4C6DcH6QuxG2bmTCdfMXgded2mEb6XGvOe29bMccOPPulPyGLZsuiAE2uOYWMm04N45Pme98K8YjbkUClDQ2XCb0fCQZocb3mTiKXRqHVWo_ul5wnpmoEm4kYFXyFMkk_K8Z/s320/thunhan28.jpg

 

Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

    Thứ Hai Mươi Tám

 

   Y Hê Di Hê [36]

   Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra xá.

 

 



]

Trong bản dịch tiếng anh của Tỷ-khưu-ni Heng Yin vào năm 1976 thì THỦ NHÃN thứ 28 là :  all the gods and good spirits: tất cả chư thiên và thiện thần

Còn THỦ NHÃN thứ 27 là: all ghosts and spirits: tất cả quỷ thần

Phật tử tạm thời đổi lại cho hợp với Kệ tụng và Kinh-văn.

]


Có bản tiếng việt  thiếu chữ 
“Xá” (he).







Kinh nói rằng: “Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ-thần, nên cầu nơi Tay cầm cây

                      Gậy- Đầu-Lâu.”

 

 

 

Thần-chú rằng: Y Hê Di Hê [36]

Chơn-ngôn rằng: Án-- độ nẳng, phạ nhựt-ra .



Kệ tụng:

Bạch cốt hoàn giao thổ vị mai
Hành nhân tu pháp thiết cung đài
Luyện thành quỷ-thần tuân hiệu lệnh
Độc lâu trượng thủ bi nguyện hoài.

]

Xương khô bỏ trên đất lâu đời không ai chôn cất,
Người tu lập một cái bàn thờ cúng dường QỦY THẦN trước TƯỢNG THIÊN NHÃN.
Bảy ngày chí tâm tụng THỦ NHÃN, Qủy thần sẽ hiện thân theo lệnh triệu.
Phát BỒ-ĐỀ-TÂM, tu theo người trì ĐỘC LÂU TRƯỢNG THỦ NHÃN ẤN PHÁP NẦY.

]

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgpjIUGtWlP4mcZUxFD3TtIxHtYCKEivIDo6fTLIzkMeCWJOKzQgX_72h_6biYsM-YtfuyQyBkDviYh5wmdSE6ZcH0ui1AfCLU_2G8KDbsfVeHVbHx7OxuC0-VjvDpZc9NvjXDn3LE9/s320/thunhan29.jpg

 

Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Hai Mươi Chín

 

Phật Ra Xá-Lợi [38]

 

Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,

                   đát ra dạ dã. 



                                       Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,

                                                 tất địa tất đà lật thế,

                                                                                      tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi

                      Tay cầm xâu Chuỗi-Ngọc.”

 

Thần-chú rằng: Phật Ra Xá-Lợi [38]

 

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- ra đát-nẳng,
                                              đát ra dạ dã.


                                              Án-- a na bà đế vĩ nhá duệ,

                                                       tất địa tất đà lật thế, tát-phạ hạ.


Kệ tụng:

Niệm tư tại tư vọng quy chơn
Thập phương chư Phật thọ thủ thân
Tốc chứng tam bối phẩm tư địa
Ma ha diệu pháp thắng linh văn.

 

]

NHỨT-TÂM TRÌ NIỆM THỦ NHÃN, thì vọng niệm không sanh khởi tức là QUY-CHƠN,

Mười phương chư Phật đưa Tay-tiếp-dẫn từ TỊNH ĐỘ NẦY SANG TỊNH ĐỘ KHÁC.

Làm cho “QÚY-VỊ” mau chứng được 9 PHẨM 3 ĐỊA VỊ BẤT THỐI CHUYỂN,

Diệu pháp ĐẠI-THỪA THẬT SỰ LÀ THÙ THẮNG, THẬT SỰ LÀ TỐI LINH.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhYOGEFL73MInufE-hrFOdFAzbKFxshdpTdTBCsRnRzOnFEBJV_3Ez9DB33QYc1AZszYg5a9PcXtzF9z_B0M2KlXhuNxdCzZ34di-ogMJntKdFnzOQ6DBGU4-DsJG-2BnYGFdmsq39-/s320/thunhan30.jpg

 

 Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp

  Thứ Ba Mươi

 

 

Dá Ra Dá Ra [33]

 

Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.

                                                    Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,

                                                     thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.



 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được tất cả Phạm-âm-thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi

                      Tay cầm chiếc Linh-Báu.”

 

Thần-chú rằng: Dá Ra Dá Ra [33]

 

Chơn-ngôn rằng: Nẳng mồ-- bát ra hàm bá noa duệ.

                                              Án-- a mật lật đảm, nghiểm bệ thất rị duệ,

                                                       thất rị chiếm rị nảnh, tát-phạ hạ.

 

 

Kệ tụng:

 

Phạm âm liệu lượng biến thái không

Khải lung chấn quý cảnh ngu mông

Huyền diệu biến hóa bảo đạc thủ

Văn thanh ly khổ giác hoa tông.

 

 

[

 

PHẠM-ÂM vang ngân biến khắp cùng tận hư không PHÁP GIỚI,

KHAI THỊ cho người ĐIẾC, kẽ MÙ và thức tỉnh người NGU TỐI.

Bảo-đạc-thủ là PHÁP TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN thật Huyền-bí, thật Diệu-kỳ,

Nếu có “AI” thấy nghe, thì ly khổ đắc lạc, chứng nhập cảnh giới HOA NGHIÊM TÔNG.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhnXgO5iHa94JAqEqHOlbV_NlrxX9_k8hWh6xikSIvyJ8GsITMpdq-EYaQO5tTWn3W-g4Z9eSY7fOcFOI8iAA7-G-LvpDlu_NqTvqY8JeIUzgSimlWvoaDEvRNllsRIFhpXvJ0aPN1s/s320/thunhan31.jpg

 

Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Mốt

 

Tát Bà Tát Bà [24]

Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.





 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi Tay cầm
                      chiếc Ấn-Báu.”

Thần-chú rằng: Tát Bà Tát Bà [24]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- phạ-nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát-phạ hạ.

 

 

Kệ tụng:

Khẩu nhược huyền hà biện tài hùng
Ngôn từ khảo diệu âm lượng hồng
Lý sự viên dung pháp tánh áo
Truyền Phật-tâm-ấn vạn thiện đồng.

[

 

Tài hùng biện như nước SÔNG chảy mãi không ngừng, như “DUY-MA-CẬT” Cư-sĩ.

Diệu-âm vang dội khắp 10 phương, tầm thanh cứu khổ như là QUÁN-THẾ-ÂM” Bồ-tát.

Lý-sự viên dung vô ngại, thì thành tựu được 2 trí: Căn-bổn-trí và Sai-biệt-trí.

PHẬT TRUYỀN 1 ẤN NHẤT THỪA, 84 000 PHÁP QUY VỀ NHẤT TÂM.

 

]

 

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjwdKmcj9ZXerLXhTd4n9SbHvwR8meecA0aClO8TyFtezKE1snaeYnv4N2aF-S-WvN32OjyBKUPsKuW1_PJxOMQ2SgoGgO4NwTj6BzJUjv841oR_4Hgm6zCR7hzO14r_h7kwAQ9ZV94/s320/thunhan32.jpg

 

Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Hai

 

 

Địa Rị Ni [31]

Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.

                                              Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được Thiên-thần, Long-vương thường đến ủng hộ, nên cầu

                      nơi Tay cầm Cu-Thi-Thiết-Câu.”

 

 

Thần-chú rằng: Địa Rị Ni [31]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- a rô rô, đa ra ca ra, vỉ sa duệ.

                                   Nẳng mồ-- tát-phạ hạ.

 


Kệ tụng:

Cấp Tu, Khoái Độ chư long vương
Quả Vãng, Pháp Đại các thiện tường
Quy y tam bảo hộ đạo trường
Hành trụ tọa ngọa vĩnh an khang.

 

[

Các LONG-VƯƠNG thích tu PHÉP THẦN THÔNG, như lại không giữ GIỚI-LUẬT,

Tuy làm THÂN RỒNG, cũng gieo được THIỆN CĂN về sau, là do tu “PHÁP ĐẠI-THỪA”.

Cũng được Quy Y Tam Bảo, thọ “BỒ-TÁT-GIỚI”, làm những vị BẢO HỘ ĐẠO TRÀNG,

Do SÁM-HỐI TRÌ GIỚI-LUẬT, nên được TỰ-TẠI AN-NHIÊN khi ĐI, ĐỨNG, NẰM, NGỒI.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgsNEf6TkOTjMdzG6uCfgJMUKwLycfQDacLQHTRhfUTQbx11jzap42fw6NZ19eo4GPm-ItG6gJoCMHCkg3pE5FKqbf-rj18Ms_HCwCT343oM00wKZtkILELXNpo2N3KCAX4WOWDczaH/s320/thunhan33.jpg



Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Ba

 

Di Đế Rị Dạ [48]

Án-- na lật thế, na lật thế,

                                             na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,

                                                                                hồng phấn tra.

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu vì lòng Từ-bi muốn cho tất cả Chúng-sanh được nhờ sự che chở

                        giúp đỡ, nên cầu nơi Tay cầm cây Tích-Trượng.”

 

 

 

Thần-chú rằng: Di Đế Rị Dạ [48]

 

Chơn-ngôn rằng: Án-- na lật thế, na lật thế,

                                   na lật tra bát để, na lật đế  na dạ bát nảnh,

                                   hồng phấn tra.



Kệ tụng:

Đại từ đại bi cứu quần sinh
Đại hỷ đại xả ích hàm manh
Đại nguyện đại nhân bồ tát đạo
Đại hùng đại lực Phật quả thành.

 

[

Đại-từ Đại-bi CỨU Chúng-sanh,
Đại-hỷ Đại-xả LỢI Hữu-tình.
Đại-nguyện Đại-NHÂN BỒ-TÁT-ĐẠO,
Đại-hùng Đại-lực THÀNH PHẬT QỦA.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj_0rYJ9GunASlsmFb-FrWeQsXJGywTumxGWH-E3SMfzQePmg7165LQIi0qvw7eb6XOBJ4GYvhEPlXsJD-PoHNZ58NmKffm8ub_UdOVHdgAWzmxWWmrKNiIy6iZTykDMl9JhhDkGBqC/s320/thunhan34.jpg

 

Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Bốn

 

 

Tất Rị Tất Rị [44]

Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.



 


Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau, nên
                       cầu nơi Tay Hiệp-Chưởng.”

 


Thần-chú rằng: Tất Rị Tất Rị [44]

Chơn-ngôn rằng: Án-- bát nạp mạng nhá lăng, hất rị.

 

(Theo trong tạng-bản, lại có chơn-ngôn: Án-- vỉ tát ra, vỉ tát ra, hồng phấn tra.)

 

 

 

Kệ tụng:

Nhất tâm cung kính thiên trung thiên
Chúng sinh ái niệm các chân hư
Chủng nhân kết quả cầu chư kỷ
Lễ thượng vãng lai đạo bất thiên.

[

 

NHẤT TÂM CUNG KÍNH chư PHẬT THẾ TÔN là đấng THIÊN TRUNG THIÊN.
Chúng-sanh chơn thành LỄ-NIỆM đấng ĐẠI-TỪ TÔN.
Quán NHÂN TỰ-TÁNH, THÀNH CHỦNG TRÍ.
ĐẢNH LỄ “NHƯ LAI”, không từ đâu đến cũng không đi về đâu.

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjZ4b-81a9Wu8RyLEUX4lNCveEeCsIVNgOBTFnb_Z2GA5YcVem7adjb3IfT6Ol5EwrqA6eB2b5o9Yn45nr9uLI7SFS_5_-YL_uhHYO4FtnlbOtRvwkGBZC36DrFhyphenhyphenzTIY39uQCLzt5k/s320/thunhan35.jpg

 

Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Lăm

 

 

A Ra Sâm [38]

 

Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,

                                                 ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi Tay hiện

                      Hóa-Phật.”

 

Thần-chú rằng: A Ra Sâm [38]


Chơn-ngôn rằng: Án-- chiến na ra, ba hàm tra rị,
                                   ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

Kệ tụng:

Túc thực đức bản chủng thắng nhân
Chư Phật Bồ tát quyến thuộc thân
Giác hải trừng thanh tâm nguyệt hiện
Đại viên kính trí cổ kim minh.


[

Trong quá khứ đã trồng THIỆN CĂN CÔNG ĐỨC, nhưng chưa  từng gieo chủng nhân thù thắng.

Vì vậy, nên không được làm QUYẾN THUỘC của chư Phật và Bồ-Tát.

Trong biển giác ngộ, KHI TÂM THANH TỊNH THÌ xuất hiện MẶT TRĂNG DƯỚI NƯỚC,
                                    dụ cho TÂM PHẬT cùng TÂM BỒ-TÁT HIỆP NHAU, tức là ĐẲNG-GIÁC BỒ TÁT.

Trong  đại viên cảnh trí, TẤT CẢ BA ĐỜI QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI và VỊ LAI ĐIỀU HIỆN rất rõ ràng,
                                                                                thì thành VÔ-THƯỢNG ĐẠO, tức là DIỆU-GIÁC.

 

]



https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6SYtgPfBVCsSHBOeZyd1wQ3sq0nsu59xLx6T_oLRkB5RXq-dKmOKDB_1yMJlm5v2EO3BscS5cSLgFeU3s-xV-wkEwv22N8SwEyPJbL-oDXIlLCXefLBDR_jMhSxpLbQrtEwky0bAe/s320/thunhan36.jpg

 

Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Sáu

 

Phạt Ma Ra [34]

Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.



 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ

                      sanh ở bào thai, nên cầu nơi Tay hiện Hóa-Cung-Điện.”

 

Thần-chú rằng: Phạt Ma Ra [34]

Chơn-ngôn rằng: Án-- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.

 

 

Kệ tụng:

 

Thế thế sinh sinh pháp vương gia

Cung điện lâu các diệu liên hoa

Bất thọ thai tạng thân thanh tịnh

Tín giải hành chứng ma ha tát.

 

 

[

 

Đời đời kiếp kiếp, được sanh ra trong nhà của ĐẤNG PHÁP-VƯƠNG.

Hóa sanh từ DIỆU LIÊN HOA trong CUNG ĐIỆN LÂU CÁC.

THÂN TÂM thanh tịnh, không còn thọ thân BÀO THAI nữa.

TÍN, GIẢI, HÀNH, CHỨNG thành Bồ-tát ĐẲNG-GIÁC Ma-ha-tát. 

 

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg3t2cqVPxT9UwUjPU4XrreRR6h86x0QUdmrm74GEKf0Is3Kx77Qb-Y3kZLoenKJPgAzZexGH6PkKUqXsw6jJz7x8-K7HrhGROOsIqi5lEdh0f31Q7MMb8VnpOc1abY4-YKec52iw34/s320/thunhan37.jpg



Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Bảy

 

 

 

Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.

                                    Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha. [53-56]

 

 

 

Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,

                              nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi Tay cầm quyển

                      Kinh-báu.”




 

Thần-chú rằng: Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha.

                       Ma Ha Tất Đà Dạ. Ta Bà Ha [53-56]


Chơn-ngôn rằng: Án-- a hạ ra, tát ra phạ ni,
                                    nể dã đà ra, bố nể đế, tát-phạ hạ.

 


Kệ tụng:

Đa văn đệ nhất thuộc A Nan
Quảng học thiện ký Khổng Nhan Uyên
Độc tụng đại thừa thâm bát nhã
Trí huệ thao thao như dũng tuyền.

[

Đứng đầu ĐA-VĂN học rộng là A-Nan.
Học rộng NHỚ LÂU, có Khổng-Tử và Nhan-Uyên.

Thâm nhập BÁT-NHÃ nhờ đọc tụng KINH ĐẠI-THỪA THỦ LĂNG NGHIÊM,
Cho nên, TRÍ-HUỆ VÔ-NGẠI như dòng suối vọt lên không ngừng.

]

 

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj8YSD3rXme-Kty-2uAgTz5jHmy6J8TQyQh2d5MIJisRLgeusfMsFiFF2ASOqShYNqbCGLE1ZooekHZM7wpsK2gN42hXZ22I3G-GI9RFjO8uVxiwanE5BjgBVssYgOAW0t0k0UrddkJ/s320/thunhan38.jpg



Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Ba Mươi Tám

 

 

Bồ-Đề Dạ [46]

Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.

 

 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, Tâm-bồ-đề thường       
                      không lui sụt, nên cầu nơi Tay cầm Bất-Thối-Kim-Luân.”

 

 

Thần-chú rằng: Bồ-Đề Dạ [46]

Chơn-ngôn rằng: Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.



Kệ tụng:


Thô tà hộ chánh kim cang luân
Ly mỵ vọng lượng câu độn hình
Bồ đề đạo tâm thường bất thoái
Kim thân nãi chí thành Phật thân



[

Dùng TRÍ KIM-CANG chuyển ĐẠI-PHÁP LUÂN, trừ TÀ-MA hộ CHÁNH PHÁP.

Tất cả  LY MỴ VỌNG LƯỢNG đều phải ẨN-HÌNH.

BẤT-THOÁI-KIM-LUÂN thủ nhãn làm cho BỒ-ĐỀ TÂM KIÊN CỐ,

Từ thân trong ĐỜI NẦY cho tới khi THÀNH PHẬT THÂN.


]

 

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiq2DEJmvKtnu8sJAyD-lC2UWyJVxen_ka4Y_br_GB723lD6mFIQ8foPtEIPfdDWhbvXEH7FJ-wTe0tSqtjE4vfZSUXk7aKlo3KpIsme8Ub6nWuKvC5YVn8ir2vGKjzTRrZGYqOCBo8/s320/thunhan39.jpg

 

Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp

Thứ Ba Mươi Chín

 

Bồ-Ðà Dạ [47]

 

                                             Án-- phạ nhựt-rị ni,

                         phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.



 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu Thọ-ký, nên cầu nơi

                        Tay Đảnh-Thượng-Hóa-Phật.”

 

Thần-chú rằng: Bồ-Ðà Dạ [47]

 

Chân-ngôn rằng: Án-- phạ nhựt-rị ni, phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.

  


Kệ tụng:


Hóa Phật đảnh thượng pháp tối kỳ
Phổ cứu quần sinh xuất hãm ni
Công viên quả mãn siêu tam giới
Tức hoạch giác giả thọ thánh ký.

[

Hóa Phật trên “ĐẢNH” pháp diệu kỳ
Cứu độ “QUẦN-SANH” khỏi “TRẦM-LUÂN”
Công viên qủa mãn ra “TAM-GIỚI”
Tức được THỌ-KÝ thành CHÁNH-GIÁC.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhV_RRws8lJCgSwCF67ay_CQA9N__x2FbS-IP5fVt9ubV2Y2_Q44-6ySkKOd6yjTXpM7vvG71gcwiTSK4UwvREDkmG3Asj7t5vNt7ieB7vBiPVxHXREw3VAgRuC3a57Dt5v-jhyphenhyphenatbV/s320/thunhan40.jpg



Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Bốn Mươi

 

A Tất Đà Dạ [66]

Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, tát-phạ hạ.



 

 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi Tay cầm chùm

                      Bồ-Đào.”



Thần-chú rằng: A Tất Ðà Dạ [66]

Chơn-ngôn rằng: Án-- A-ma lã kiếm đế nể nảnh, Tát-phạ hạ.


Kệ tụng :



Viên phố quả qua đào lý tân
Hướng vinh chi diệp thậm tiên minh
Ngũ cốc phong thu thương doanh túc
Bách ban như ý khánh thăng bình.


]

VƯỜN-TRỒNG cây ăn trái  như  là DƯA, ĐÀO và MẬN.
Cành lá đều XUM XÊ tươi tốt ;
Nên  được mùa thu hoạch, ngũ cốc đầy kho.
Vì NGŨ-CỐC ĐƯỢC DỒI DÀO,  cho nên dân chúng được AN-LẠC.


]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiia26XfnLzo-FaCGpynVzcviAbHae2kqsNgYF4LOiuil3hSW6OcpnrTEFgSHS3Yf8lzkLHkToguNxSL0-gwPrL09cLtSgqXFiNHQIq2cHdu-dTsz1zSju9lhB8i10QaHZ-GC_RgCMr/s320/thunhan41.jpg



Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Bốn Mươi Mốt

 

 

Tô Rô Tô Rô [45]

 

                                    Án-- Tố rô tố rô, Bác-ra tố rô, Bác-ra tố rô,

tố rô tố rô dã, Tát-phạ hạ.





         

Kinh nói rằng: “Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên

                        cầu nơi Tay hóa nước Cam-Lộ.”

 

 

Thần-chú rằng:  Tô Rô Tô Rô [45]

 

Chân-ngôn rằng:  Án-- tố rô tố rô, bác-ra tố rô,

                            bác-ra tố rô, tố rô tố rô dã, tát-phạ hạ.

 

 

( Có bản thiếu 2 chữ “TỐ RÔ” )


Kệ tụng:

Cơ khát hữu tình vọng thanh lương
Khô mộc trùng sinh phóng dị quang
Phổ khánh từ bi sâm tạo hóa
Cam lộ thiên lệ tế thập phương.


]

Chúng-sanh ĐÓI KHÁT cầu cứu độ.
Như Cây khô nhờ nước CAM-LỘ, được sống lại càng thêm tươi tốt dị thường.
Đại-từ Đại-bi phổ độ khắp PHÁP GIỚI chúng sanh.
Như một trận MƯA Cam-lộ, làm cho 10 PHƯƠNG chúng sanh được NO ĐỦ MÁT MẼ.

]

 

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjpUYK39BdHh6rLyiDeSnMPZDp5kNYuqMt7EX8BWJ3ymcuU5wC6SJolUdPYur10DFB_1lvm39HQHw2ytBaPkkQdN1r9QuvXXFDEmF64z_1i5UuUIT4Q4IH5KpR3AEZWPfJOxnjU6Jvt/s320/thunhan42.jpg

 

         Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp

Thứ Bốn Mươi Hai

 

 

Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

 

 

Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,

tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

 

---o0o---

 


Kinh nói rằng: “Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi Đại-thiên, nên cầu nơi Tay
                      Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý-Thủ.”

 

Thần-chú rằng: Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]

Chơn-ngôn rằng: Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
                           tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.

 

 

Có bản Việt-văn thiếu 4 chữ tát bà đốt sắc”, còn bản Anh-văn thì có thêm chữ Án-- (Nan.)  

 


Kệ tụng :

Thủ nhãn biến thân diệu vô biên
Hàng phục chúng ma trấn tam thiên
Khảo tà quy chánh tu thiện pháp
Ma ha bát nhã nan ngôn tuyên.


[

TAY MẮT hóa THÂN diệu khó lường

Hàng phục chúng ma, hộ TAM THIÊN

Cải tà qui chánh tu thiện pháp

Ma Ha Bát Nhã, THỂ VÔ NGÔN.


]





 

 

- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi. 

Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: 

 

Nhựt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni



Nam mô Bột-đà cù na mê. Nam mô Đạt-mạ mạc ha đê. Nam mô Tăng-già đa dạ nê.

Để chỉ bộ tất tát đốt chiêm nạp mạ. 




Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng. 

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: 

 

Nguyệt-Quang Bồ-tát Đà-ra-ni

 

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế ô đô tra. Thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá-phạ hạ. 



Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: 

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi. 

Đức Phật bảo ngài A Nan: 

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có. 

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi. 

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành 

 

KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN

VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI

 

 CHUNG

 


Comments

Popular posts from this blog