TIỂU THỪA VÀ ĐẠI THỪA
Tám Điểm
Sai Biệt Của Hai Phái
1. TÂM LƯỢNG
2. CĂN CƠ
3. NHÂN SANH QUAN
4. VŨ TRỤ QUAN
5. QUAN NIỆM
TAM BẢO
7. THỜI GIAN TÁNH
8. QUẢ CHỨNG
Đứng về phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu-thừa
và Đại-thừa có ba nguyên nhân : Do hoàn cảnh, Do trào
lưu tư tưởng, và Do các học giả phát khởi.
Do hoàn cảnh: Đại-thừa Phật-giáo
bộc hưng, một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Xét theo lịch sử, từ
đời A-Dục-Vương về sau, quần chúng miền Bắc-Ấn thường giao thiệp với dân tộc
hai xứ Hy-Lạp, Ba-Tư. Những nhà học Phật ở Bắc-Ấn lúc ấy càng ngày càng đông.
Do sự tiếp xúc với ngoại nhân, họ lần lần chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn-giáo của
hai xứ đó, nên có nhiều nhà học Phật chủ trương sùng bái cầu nguyện.
Bởi nguyên nhân nầy, thuyết tha-lực vãng sanh đã sẵn có trong
Kinh-điển Phật-giáo được đề khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu vãng sanh về
cõi Đâu-Suất của Di-Lặc Bồ-Tát, cõi Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà, cõi Lưu-Ly của
Phật Dược-Sư, cõi Diệu-Hỷ của Phật A-Súc-Bệ rất thịnh hành. Trong đây
chỉ có thuyết vãng sanh Cực-Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi
phong trào nầy là Chủ-tình-đại-thừa-giáo.
Mặt khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các phái ngoại-đạo
lần lần phục hưng, lý thuyết của họ càng ngày càng được cải cách thêm
đến mức siêu việt. Song song với phong trào đó, kho tàng Phật-giáo cũng phải
được khai thác triệt để, mới có thể đối phó với ngoại-đạo và giải quyết đầy đủ
mối nghi ngờ của học giả. Vì thế, Đại-thừa Phật-giáo phải ra đời để
thích ứng với thời đại.
Do trào lưu tư tưởng: Khởi nguyên tư
tưởng Đại-thừa Phật-giáo lẽ dĩ nhiên đã có từ khi Ðức Như-Lai còn tại
thế. Sau khi Ðức Thế-Tôn diệt độ 100 năm, giáo đoàn đạo Phật chia thành
Thượng-Tọa-bộ và Đại-Chúng-bộ, rồi lần lần phát sanh ra các chi phái. Giáo
nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả đạo lý Đại-thừa. Tư tưởng của
học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời A-Dục đến đời Ca-Nị-Sắc-Ca, quan
niệm Đại-thừa-giáo càng ngày càng phát hiện thêm rõ rệt.
Trên phương diện địa lý, tư tưởng nầy bắt nguồn từ xứ
An-Đạt-La thuộc Nam-Ấn-Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma-Ha-Bát-Nhã, phát
xuất từ Đại-Chúng-bộ. Trong kinh Bát-Nhã có đoạn Phật dự ký:
“Sau khi Như-Lai niết-bàn, kinh nầy được truyền về phương nam,
rồi từ đó lưu chuyển đến phương tây và lên phương bắc”.
Lời dự ký nầy đã chứng minh cho Đại-thừa Bát-Nhã xuất phát từ
phương nam. Đại-thừa Phật-giáo ở Bắc-Ấn-Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê
khảo chưa được chính xác. Nhưng theo ngài Huyền-Trang thì tại xứ Câu-Tát-La
(Kosala), Kinh-điển Đại-thừa rất nhiều, Phật-pháp ở đây cực thịnh và được
truyền bá đi các nơi khác.
Hoặc giả địa phương nầy là chỗ phát nguyện của Đại-thừa
Phật-giáo miền Bắc-Ấn chăng?
Do các học giả phát khởi: Sau
khi Phật diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng lần lần biến thiên, nên sự đòi
hỏi thích ứng với quan niệm quần chúng càng ngày càng thêm cần thiết.
Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại-đạo cũng lần lần được cải tiến,
họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật, để bổ khuyết
thêm cho học thuyết của mình.
Vì thế, lập luận của họ càng ngày thêm vững vàng, trong đó các
phái Thắng-luận, Số-luận, Phệ-Ðàn-Đà luôn luôn bài xích Phật-giáo.
Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên về khuynh hướng giải
thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế Phật-giáo lần lần thấy sút
kém trước ảnh hưởng của ngoại-đạo.
Để cứu vãn tình thế và thích ứng thời cơ, sau Phật diệt độ 700
năm, hai ngài Mã-Minh, Long-Thọ nối nhau xuất
hiện, trứ tác các bộ như: Đại-Thừa-Khởi-Tín-Luận, Đại-Trang-Nghiêm-Luận-Kinh,
Trí-Độ-Luận, Thập-Trụ-Tỳ-Bà-Sa-Luận, Trung-Quán-Luận để phát huy ý nghĩa
Đại-thừa Phật-giáo.
Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề-Bà, La-Hầu-La,
Bạt-Đà-La, Vô-Trước, Thế-Thân cũng cực lực đề xướng đạo lý nầy.
Xét ra, đứng về mặt bao quát, Đại-thừa kiêm cả
Tiểu-thừa. Nhưng Đại-thừa giáo sở sĩ được biệt lập là để đối kháng với quan
niệm bảo thủ và xu hướng tự giải thoát của phần đông chư Tăng thời bấy giờ.
Nhưng hoàn cảnh hoặc trào lưu tư tưởng chỉ là nhân duyên phát khởi, mà thành
quả lại do sự xướng lập của chư đại-đức Mã-Minh, Long-Thọ, Vô-Trước, Thế-Thân.
Cho nên người sau thường gọi các ngài là những nhà cách mạng Phật-giáo.
Vậy, khởi nguyên của Đại-thừa Phật-giáo là bởi ba lý
do trên. Quan niệm phân biệt, khen chê giữa Đại-thừa và Tiểu-thừa sau
nầy, thật ra cũng có. Nhưng sự đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật-giáo là
một lẽ tất nhiên của thời đại, mà dù muốn dù không, người ta vẫn không thể
tránh.
Nhưng về phương diện lập thuyết, thì hai phái hoàn toàn khác
nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lý, hạnh, quả. Trong Trí-Độ-Luận, ngài Long-Thọ
nói:
“Phật-pháp đồng một vị, đó là vị giải thoát. Trong vị giải
thoát nầy có hai thứ: một là chỉ vì mình, hai là vì tất cả chúng-sanh. Cho nên,
tuy đồng cầu giải thoát, mà có sự lợi mình và mình người đều lợi khác nhau. Vì
thế, mới có sự sai biệt giữa Tiểu-thừa, Đại-thừa”.
Xem đây thì biết, sự khu phân của hai phái không phải chỉ
thuộc trên nguyên nhân, mà còn trên phương diện chủ thuyết. Căn cứ theo
Nhập-Đại-Thừa-Luận của ngài Kiên-Ý và xét qua chủ trương lập thuyết đôi bên, ta
có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu-thừa và Đại-thừa thành tám điểm như sau:
1. Tâm-lượng: Hàng Tiểu-thừa tâm
lượng hẹp hòi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ não trong đường sanh-tử. Họ
chỉ biết độ cho mình hơn là độ cho kẻ khác.
Hàng Đại-thừa tâm lượng rộng rãi, quyết đạt đến lý tưởng tự
lợi lợi tha. Hơn nữa, họ còn lấy việc lợi tha làm chủ đích.
2. Căn-cơ: Tiểu-thừa
là hàng căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như : Tứ-đế,
Thập-nhị-nhân-duyên.
Đại-thừa là hạng có thắng giải đại tánh, không thích tiểu pháp
mà ưa thọ trì những đại pháp như: Ngã-pháp-câu-không,
Duyên-khởi-như-huyễn.
3. Nhân-sanh-quan: Tiểu-thừa khuynh
hướng về Nhân-sanh-quan vô thường, nhiều khổ não. Vì vậy, họ chủ trương
phá tan Tiểu Ngã, mong sớm chứng vào thể tánh vắng lặng, và lấy đó làm chỗ
giải thoát an vui.
Đại-thừa cũng bắt đầu từ quan niệm ấy, nhưng lại hiểu
rằng các pháp như huyễn, chúng-sanh chính là tự tánh của mình. Cho nên
lập thuyết của họ là phá chấp trên Ngã, Pháp, để khuếch trương Ðại-ngã, không
cần phải lìa đời xa lánh chúng-sanh, mà vẫn được giải thoát tự tại.
4. Vũ-trụ-quan: Tiểu-thừa đối với
vạn hữu thì cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận sanh diệt, yếu tố để giải
thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu-thừa cũng chỉ trong vòng
Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới, cho nên họ không tin có Tha-phương
Tịnh-độ.
Đại-thừa thì ngoài hiện tượng sai biệt, còn thuyết minh
chân-như bình đẳng không sanh diệt để đạt đến bản thể luận. Yếu tố để giải
thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận rằng, ngoài thế-giới
nầy còn có vô số Uế-độ và Tịnh-độ như vi-trần.
Tất cả đều là thể Như-huyễn-tự-tánh thanh-tịnh-tánh.
5. Quan niệm Tam-bảo: Về
Phật-bảo, hàng Tiểu-thừa chỉ chấp nhận Ðức Thích-Ca-Mâu-Ni và chư Phật của cõi
Ta-Bà, không tin có các đấng Như-Lai ở tha phương thế-giới.
Về Pháp-bảo, họ chỉ tín thuận những kinh Tiểu-thừa như A-Hàm,
Pháp-Cú... không tin nhận những kinh Đại-thừa như Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa.
Về Tăng-bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A-la-hán như
Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên.... không chấp nhận các bậc Bồ-Tát tha
phương như: Phổ-Hiền, Dược-Vương, Nguyệt-Quang, Thế-Chí.
Trái lại, Đại-thừa tin nhận cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi
Tam-bảo ở cõi nầy cùng mười phương.
6. Tư-lương-tánh: Trên phương diện
tu hành, hàng Tiểu-thừa thiên về Huệ, y theo Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên,
Tam-thập-thất-đạo-phẩm, mục đích để phá trừ ngã chấp, chứng
quả nhân không.
Còn hàng Đại-thừa thì y theo Lục-độ-vạn-hạnh gồm tu phước
huệ, phá cả Ngã-chấp lẫn Pháp-chấp, chứng
quả nhị-không.
7. Thời-gian-tánh: Về
Tiểu-thừa, hàng Thanh-Văn phải tu từ ba đời đến 60 kiếp mới
chứng quả A-la-hán; còn hàng Duyên-Giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp
mới chứng quả Bích-Chi-Phật.
Còn bên Đại-thừa phải dùng ba A-tăng-kỳ-kiếp để
tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.
8. Quả-chứng: Giải thoát của
Tiểu-thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ não ở hiện tại mà thể nhập
vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là cầu lấy quả
A-la-hán hoặc Bích-Chi-Phật.
Giải thoát của Đại-thừa là tích cực. Họ hiểu rằng phiền não
vốn không và trong chúng ta có đủ đức tướng, trí huệ của Như-Lai cùng vô lượng
công đức. Vì thế họ lấy địa vị Phật-Ðà làm lý tưởng chung
cuộc. Về chúng-sanh, Đại-thừa quyết độ tất cả đều thành Phật. Về
thế-giới, họ quyết biến cõi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm.
Cho nên mục đích của Đại-thừa gồm trong câu:
“Trang
nghiêm Phật-độ, thành tựu chúng-sanh”.
DUNG HỘI
CÁC THỪA
Theo Nguyên-thủy Phật-giáo, quả Niết-bàn giải thoát của hàng
Thanh-Văn đồng với Phật, nhưng bậc Thanh-Văn phước trí chưa được đầy đủ bằng
Ðức Thế-Tôn. Theo Đại-thừa Phật-giáo, quả Vô-thượng-bồ-đề của Như-Lai
duy những vị tu theo Bồ-Tát-thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách
quan để khảo cứu Kinh-điển của hai phái, ta có thể chia lối thuyết pháp của
Phật ra ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, Ðức Thế-Tôn vì muốn
cho hàng đệ-tử lìa khỏi nỗi khổ thân tâm hiện tại, hưởng sự an vui tịch tịnh,
nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải thoát. Như Đức Phật dạy:
“Thế nầy là Khổ, thế nầy là Tập, thế
nầy là Diệt, thế nầy là Đạo. Như-Lai đã tu tập theo
đường lối ấy, các ông nên thực hành theo. Như-Lai đã đắc quả giải thoát theo
đường lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng nhập... Hiện nay sự sống chết của ta
đã dứt, phạm hạnh đã thành lập, việc làm cũng đã xong, không còn thọ
thân đời sau nữa...”
Xuyên qua mấy lời nầy, đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng
đệ-tử trong buổi đầu tiên dường như không khác nhau, có thể biểu dương bằng
câu:
“Hành đồng
đạo, đắc đồng quả”.
Qua thời kỳ thứ hai, Ðức Thế-Tôn lần lần
nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong đoạn ngài Văn-Thù trình bày kiến
giải với Phật: “Bạch Ðức Thế-Tôn! Tu Bát-Nhã-Ba-La-Mật là không rời bỏ
pháp phàm-phu, không cầu lấy pháp hiền-thánh. Tại sao thế? Vì người
thực hành môn nầy, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng không thấy có
Niết-bàn đáng ưa, sanh-tử đáng chán. Bởi Niết-bàn cùng sanh-tử, hành giả còn
không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư?”
Đức Phật bảo: “Đúng như thế! Nầy Văn-Thù! Đó là sở hành của
các bậc Bồ-Tát-Ma-Ha-Tát. Cho đến hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, nói chung là bậc
hữu học, vô học, đều không nên rời pháp ấn nầy mà tu đạo quả”.
Đoạn kinh văn trên đây, chứng minh Ðức Thế-Tôn khuyến
dụ hàng Thanh-Văn đi vào thâm pháp. Ngài còn bảo chính mình đã trải
qua vô lượng kiếp, tu những nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất
cộng của quả Vô-thượng-bồ-đề.
Đến thời kỳ thứ ba, Ðức Thế-Tôn dung hòa
ba thừa. Đại ý Ngài nói: “Những vị nghe tu theo pháp Tứ-đế, chứng được đạo quả,
gọi là Thanh-Văn thừa. Hạng căn cơ lanh lợi hơn, tự phát minh hoặc
do ngôn giáo của Như-Lai mà tỏ ngộ Thập-nhị-nhân-duyên, gọi là Ðộc-Giác,
hoặc Duyên-Giác thừa. Bậc thật hành Lục-độ, cầu quả Vô-thượng, gọi là Bồ-Tát
thừa.
Nhưng hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác có thể hướng thượng và thành
Phật; hai thừa nầy chỉ là những nấc thang để bước lên Bồ-Tát thừa mà thôi”.
Tóm lại, ba thừa chỉ là một, Ðức
Như-Lai ra đời không ngoài mục đích đưa chúng-sanh đến quả Phật, và Ngài cũng
chỉ dạy có đạo pháp Nhất-thừa.
Danh từ Nhất-thừa, trong Kinh-điển của hai phái, Đức Phật cũng
thường nhắc nhở đến. Như kinh Tạp-A-Hàm nói: “Có Nhất-thừa-đạo hay khiến cho
chúng-sanh được thanh tịnh, đưa họ vượt qua sự thương lo buồn khổ, vào pháp
chân-như. Đó là Tứ-niệm-xứ...” Và đoạn:
Ta có pháp Nhất-thừa
Vì chúng-sanh các cõi
Diễn nói chánh-pháp âm
An ủi chúng-sanh khổ
Chư Phật đời quá khứ
Dùng pháp nầy độ sanh
Chư Phật đời vị lai
Cũng diễn Nhất-thừa-pháp
Chư Phật đời hiện tại
Nương đây độ dòng mê
Đưa khỏi bờ sanh tử...
Kinh Pháp-Hoa cũng nói:
Vì thế, Xá-Lợi-Phất
Ta mới lập phương tiện
Nói các pháp diệt khổ
Chỉ bày nẻo Niết-bàn
Nhưng cảnh Niết-bàn nầy
Chưa phải chân diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tự hướng hằng vắng lặng
Phật-tử đã hành đạo
Về sau sẽ thành Phật
Ta dùng sức phương tiện
Mở bày pháp Tam-thừa
Tất cả chư Thế-Tôn
Đều nói Nhất-thừa-đạo
Nay trong đại chúng đây
Phải nên trừ nghi hoặc
Lời chư Phật không khác
Chỉ một, không hai thừa...
Pháp tối diệu bậc nhất
Vì các loại chúng-sanh
Phân biệt nói ba thừa
Kẻ thấp ưa pháp nhỏ
Không tin mình thành Phật
Nên ta dùng phương tiện
Chia ra các đạo quả
Tuy là nói ba thừa
Kỳ thật dạy Bồ-Tát...
Căn cứ mấy đoạn kinh trên, thì từ trước đến sau, Đức
Phật chỉ dạy có Nhất-thừa-pháp, chẳng qua vì tùy trình độ chúng-sanh mà
phương tiện dẫn dụ thế thôi.
Tóm lại, trong một đời giáo hóa, nói rộng ra, tuy Ðức Thế-Tôn
dạy bảo Nhân-thừa, Thiên-thừa, Thanh-Văn-thừa, Duyên-Giác-thừa, Bồ-Tát-thừa,
song không ngoài mục đích để thành tựu Phật-thừa, tức là Nhất-thừa-đạo.
Đối với hạng chưa thể tu theo đường giải thoát, Ngài khuyên
dạy pháp Ngũ-giới, Thập-thiện, để cho họ trồng căn
lành, khỏi sa vào ác đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau.
Với hạng có thể bước lên nẻo Niết-bàn, Ngài khai thị
pháp Tứ-đế, Thập-nhị-nhân-duyên, để họ thoát nỗi khổ
luân-hồi, hưởng sự vui tịch tịnh, rồi lần lượt dẫn dụ vào đại pháp.
Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ ngay Bồ-Tát-đạo,
khiến cho họ mau thành tựu quả Phật. Đức từ bi, bình đẳng, trí huệ, phương tiện
của Phật quả thật không lường!
Thế thì dù Tiểu-thừa hay Đại-thừa, đều
cùng là con của Phật, cùng sẽ về một tiêu điểm, người Phật-tử chỉ nên tự xét và
tự hướng lối đi của mình đúng như lời dạy của Ðức Thế-Tôn, chớ không
nên cố tâm chia rẽ.
Phật
Học Tinh Yếu
Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm
* Phật
pháp theo sự tùy hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu Thừa và Đại Thừa.
Tiểu Thừa nói những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng về mục tiêu gấp cầu liễu
sanh tử cho chính mình, và chỉ đi đến
quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác. Đại Thừa nói các pháp rộng lớn, hướng về
hoằng nguyện độ thoát tất cả chúng sanh, và
đi đến quả vị Toàn Giác của Như Lai. Pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa,
nên chẳng những đi về chiều hướng tự độ mà còn kiêm cả độ tha.
Đạo
Phật du nhập vào Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư vị Tổ Sư, kết quả
lập thành mười tông. Trong đó có hai tông thuộc về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông
và Câu Xá Tông. Nhưng căn tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu
Thừa, nên không bao lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông kia thì thuộc
về Đại Thừa, gồm có Thiên Thai Tông, Hiền Thủ Tông, Tam Luận Tông, Pháp Tướng
Tông, Luật Tông, Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông. Môn hoằng dương của Tịnh
Độ Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn này chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e
cho đã bị tiêu mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt Nam ta là
một bán đảo thuộc miền duyên hải, dân tánh có chiều hướng hoạt động suy tư
rộng, nên phần lớn thích hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước
này, Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng.
* Luận
về pháp, những pháp nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng thuyết rộng về giới
ngoại và sự lợi tha, đó là pháp Đại Thừa. Trái lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm chủ yếu để phân định Tiểu Thừa
hay Đại Thừa, là thuộc về tâm chớ không phải pháp. Nếu dùng pháp Tiểu Thừa hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật quả
thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế, khi đức Như Lai giảng dạy về Tiểu Thừa
giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu Thừa hay sao? Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần
phải chú trọng về chỗ phát tâm, tức là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Môn Niệm Phật
đã thuộc về pháp Đại Thừa nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề tâm
nữa, thì tâm và pháp đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả Viên Giác kiêm cả tự lợi
lợi tha. Nếu phát tâm nhơn thiên thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành
pháp nhơn thiên. Người niệm Phật mà phát tâm như thế, chỉ hưởng được sự sang
quý ở cõi người cõi trời, khi phước báo hết, lại chịu luân hồi sa đọa. Nếu phát
tâm Tiểu Thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp Tiểu Thừa. Người niệm Phật
mà phát tâm này, thì chỉ được quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh Văn,
Duyên Giác, lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo giải thoát
cho mình, không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác. Cho nên niệm Phật
cần phải phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lời tục thường nói: "Sai một ly, đi
ngàn dặm." Người niệm Phật tu hành đối với điểm phát tâm có chính xác cùng
không, há chẳng phải là một điều đáng chú ý lắm ư?
Niệm
Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền
Tâm
Comments
Post a Comment