NGÀY RẰM THÁNG BẢY 

 LỄ VU LAN

THỨ TƯ, NGÀY 30 THÁNG 8 NĂM 2023

(nhằm  15-7 Qúy Mão)


NGHI THỨC MẬT TỊNH


 

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI


 

I. - MÔN LỄ BÁI

 

( Trước tiên đến nơi lễ tụng, rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

 

 

PHỔ LỄ CHƠN NGÔN

 

ÁN PHẠ NHỰT RA VẬT (7 lần)

 

 

            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG



để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10  phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)

 

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 

Chí tâm đảnh lễ:  Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

 

Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

 

 

II.- MÔN TRÌ TỤNG


 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN

 

ÁN LAM

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM. (7 lần)

 

 

( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Khi tụng chú này, kiết CHUẨN ĐỀ BIỆT ẤN

 


Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú 

 

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN 

ÁN LAM

 

và  

 

 

 TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN

 

ÁN TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,

ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.

 

 Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.  


Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ HÁM





đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.

 


HƯƠNG TÁN

 


Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô-biên Thanh văn chúng,

Cập nhứt thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo. 

 

Nam mô Hương Vân cái Bồ Tát ma ha tát (3 lần)

 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI)

 

Kính lễ Thích-Ca Đại-Điều-Ngự
Tiếp-dẫn Tây-phương Tam-Thánh-Tôn
Mười-phương tám mươi tám cu-chi
Hằng-sa chư Phật đều tuyên thuyết
Thanh-Tịnh Chư-Thú Vô-Cấu-Quang
Phật-Đảnh Tôn-Thắng môn thần diệu
Hay trừ tất cả các tội chướng
Xuất-sanh phước-trí rộng vô biên
Độ thoát ba cõi cùng sáu đường
Khiến được tuỳ tâm lên bỉ-ngạn
Nay con chí thành xin thọ trì
Nguyện thoát Ta-Bà sanh Cực-Lạc.


Nam mô Phật-Đảnh Tôn-Thắng Hội-Thượng-Phật Bồ-Tát (3 lần)

 

  

PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI

 

Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !


Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.

Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà đa, suýt đà đa. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.

Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.

Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.

Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.

Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà đa. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá đa, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.


Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .


UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(Tuỳ sức tụng nhiều hay ít 3 biến, 7 biến, 21 biến, 49 biến hoặc 108 biến. 



Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thành. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. )


 

Phật-Đảnh Tôn-Thắng
Công-đức Hằng-sa
Phá không ác đạo cảnh Diêm-la
Rải rác Mạn-đà-la
Độ thoát Ta-Bà
Về cõi thắng Liên-Hoa.

Nam Mô Tuyên-Dương Tôn-Thắng Diệu-Môn Bát-Thập Bát-Cu-Chi Hằng-Hà-Sa Chư Phật.  (3 lần)

 

( Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “NHỨT TỰ CHUYỂN LUÂN”

 

 

như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú  LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN hoặc PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI nầy.


Bút giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.

 

Tụng chân ngôn xong, kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối

 

Ẩn tu thôi mặc dở hay đời

Chỉ ước lâm chung dự biết thời

Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc

Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.

 

Ẩn tu tế độ chẳng quên lòng !

Bi, Trí đôi đường phải suốt thông

Y sĩ nhân tâm dù đã sẳn

Còn rành nhân thuật mới thành công !

 

Ẩn tu quyết chí gạt trần tình

Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình

Sức yếu phải cam phần kém yếu

Tình đời ví nhẹ đạo tâm sinh.

 

Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

Ẩn tu mạt-kiếp thấy lời ghi

Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ

Lần lượt các kinh đều diệt hết

Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.)

 

 

SÁM THẬP PHƯƠNG

 

 

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,

Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,

Nhị đế dung thông tam-muội ấn,

Như thị vô-lượng công-đức hải,

Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,

Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,

Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,

Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng

Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,

Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,

Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,

Nãi chí hư-không thế-giới tận,

Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,

Như thị tứ pháp quảng vô-biên,

Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.

 

NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT.  (3 lần)

 

 

(Kế tiếp, chắp tay đọc TÂM KINH và bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)

 

 


MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 


Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)

 

 

Khể thủ tây phương An-Lạc quốc

Tiếp dẫn chúng-sanh đại đạo sư

Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh

Duy nguyện từ-bi ai nhiếp thọ

 

Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp-giới chúng-sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô-thượng bồ-đề đạo-cố, chuyên tâm trì niệm A-Di-Ðà-Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh-độ. Duy nguyện Từ-Phụ A-Di-Ðà Phật ai lân nhiếp thọ từ-bi gia hộ.

 

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng luân,

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di.

Hám mục trừng thanh tứ đại hải,

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa bồ-tát chúng diệc vô-biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

 

 

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI

ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A-DI-ÐÀ PHẬT

        

  (Kế tiếp niệm)

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, Bút giả  lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

III.MÔN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)

Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)


 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

 

Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

         

          ( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 

 

NHỨT TÂM QUY MẠNG  ÐẢNH LỄ:  Nam mô Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)

 

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

 

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

 

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)

 

CHUNG





KINH THIÊN-THỦ THIÊN-NHÃN

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT QUẢNG-ÐẠI VIÊN-MÃN

VÔ-NGẠI ĐẠI-BI-TÂM ÐÀ-RA-NI

 

LỜI BẠT


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG

III. PHẦN LƯU-THÔNG



KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT


DUYÊN KHỞI 


I. PHẦN TỰ

II. PHẦN CHÁNH-TÔNG


KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN

III. PHẦN LƯU-THÔNG







Ý NGHĨA CỦA SỰ ĂN CHAY


 

1.- Vì lòng thương xót chúng-sanh

2.- Vì tránh ác báo của nghiệp sát

3.- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị trần

4.- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ thực hành trên đường tu

 

 

Theo quan niệm phổ thông của hàng Phật-tử Việt-Nam, ăn chay là dùng những chất thanh đạm, không ăn cá thịt và các thứ hôi nồng thuộc về loại ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ). Nếu dùng cá thịt và ngũ tân, người ta gọi là ăn mặn. Nhưng thật ra, chữ “Chay” nói trại từ nguyên âm “Trai” và Trai có nghĩa là Trung hoặc Thời-thực. Trung hay Thời-thực là dùng bữa giữa ngày vào giờ Ngọ, nếu ăn quá ngọ gọi là phi thời thực. Còn dùng chất thanh đạm, nên gọi là “tố-thực”, nghĩa là “ăn lạt”, mới xác đáng hơn. Tuy nhiên, chữ Trai dịch từ Phạm-âm Ô-Ba-Va-Sa-Tha (Upavasatha), lại có nghĩa là “thanh-tịnh”. Và bởi ăn lạt cũng có tánh cách làm cho thân tâm con người nhẹ nhàng thanh tịnh, nên bên Ðại-thừa-giáo mới chuyển lần ý nghĩa Tố-thực xem đồng như Trai-thực. Vậy tiếng “Chay” tuy không hoàn toàn xác đáng với nguyên ủy của nó, nhưng cũng có một phần nào ý nghĩa, nên bút giả xin dùng danh từ nầy với ý dùng chất thanh đạm cho hợp với quan niệm phổ thông của Phật-tử Việt-Nam.

 

Phần đông Phật-tử không hiểu xác đáng ý nghĩa ăn chay, nếu có hỏi duyên do thì trả lời một cách đại khái: “Tôi ăn chay để tập lần tánh nết cho thêm bình tĩnh hiền lương”. Lại có những lời đồn huyễn bảo: “Ăn chay sẽ khỏi tai nạn bom nguyên tử, hoặc ma vương sắp ra đời, hay sắp tận thế, ai không ăn chay sẽ bị chết hết, không được dự hội Long-Hoa”. Những truyền thuyết như trên đều không có căn bản, làm cho nhiều người cố tự ép ăn chay một cách gắng gượng, kết cuộc qua một thời gian rồi cũng thôi bỏ. Theo Phật-giáo, ăn chay có những ý nghĩa như sau:

 

1.- Vì lòng thương xót chúng-sanh: Ðã là loại hữu-tình, loài nào cũng biết đau đớn buồn khổ và ham sống sợ chết, trừ những duyên cớ riêng biệt. Chính mình khi bị vấp ngã hay đứt tay một chút, còn cảm thấy đau đớn, huống chi là cảnh đâm chém, đập giết, thiêu nướng, xẻ thịt, banh da! Như thế tại sao ta lại nỡ an nhiên vui vẻ, ăn uống trên sự đau khổ vô hạn của chúng-sanh? Chính mình khi sắp bị giết đã khóc thương sợ hãi, hoặc người thân bị giết thì cũng xót xa, oán hận, đau buồn! Như thế tại sao ta lại nỡ làm cho chúng-sanh khác sợ hãi đau thương lúc sắp bị giết, bị chia ly cùng quyến thuộc? Ðức Phật là đấng đại từ bi, nên người con Phật thể theo lòng từ bi đó mà ăn chay, để tránh việc trực tiếp hoặc gián tiếp sát sanh đầy thê thảm ấy. Trong kinh Lăng-Già, Ðức Thế-Tôn bảo Ðại-Huệ Bồ-Tát: “Những người ăn thịt đoạn hết hạt giống đại từ. Ta xem chúng-sanh luân-hồi trong sáu nẻo, đời đời làm cha mẹ anh em chồng vợ con cái lẫn nhau. Chúng-sanh ăn thịt nhau, toàn là ăn thịt lục thân quyến thuộc của mình. Thế mà loài hữu-tình mơ màng không biết, thường sanh lòng giết hại, làm cho nghiệp khổ thêm lớn, khiến nên mãi bị lưu chuyển trong đường sanh-tử, không được thoát ly. Kẻ không ăn thịt, sẽ được vô lượng công đức tụ. Nếu tất cả mọi người không ăn thịt, thì không ai giết hại chúng-sanh. Do có người ăn thịt tìm hỏi để mua, nên mới có kẻ vì cầu tài lợi giết chúng-sanh để bán. Cho nên kẻ ăn thịt cùng người giết chúng-sanh để bán thịt, cả hai đều có tội”.

 

2.- Vì tránh ác báo của nghiệp sát: Bởi tham miếng ngon, nên con người mới tạo nghiệp giết hại. Nhưng vì Vô-minh che lấp, không rõ thấu lý nhân-quả, nên kẻ gây nghiệp sát đâu biết hành vi đó trở lại làm khổ chính mình. Theo lý nhân-quả trong kinh, người tạo sát nghiệp, như nặng tất bị đọa vào Tam-đồ, nhẹ thì phải chịu nhiều đau bịnh, hoặc chết yểu, cùng sự khổ nạn về chiến tranh. Kinh Niết-Bàn nói: “Tội sát sanh có ba bậc: thượng, trung, hạ. Nghiệp sát bậc hạ, là giết từ loài kiến cho đến tất cả Bàng-sanh. Người tạo tội nầy phải bị đọa vào Tam-đồ, chịu sự khổ về bậc hạ. Tại sao thế? Bởi loài nhỏ dù là con kiến, con muỗi cũng có chút căn lành, nếu giết nó thì phải chịu tội báo. Nghiệp sát bậc trung là giết từ phàm-phu trong loài người cho đến bậc A-na-hàm. Người tạo tội nầy phải bị đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Bàng-sanh, chịu sự khổ về bậc trung. Nghiệp sát bậc thượng là giết từ cha mẹ cho đến bậc A-la-hán, Bích-Chi-Phật. Người tạo tội nầy, phải bị đọa vào đại Địa-ngục A-Tỳ, chịu sự khổ về bậc thượng”.

 

3.- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị trần: Trong mười pháp-giới, nếu nói tóm tắt, duy có hai nẻo: phàm và thánh. Phàm phu tâm còn nhiễm ô phiền não, chư thánh tâm hằng sáng sạch lặng trong. Bởi thế cho nên hàng Phật-tử muốn vượt phàm lên thánh, thoát nỗi khổ luân-hồi, phải bỏ nhiễm về tịnh. Mà muốn được tịnh tâm, phải ngăn ngừa đừng cho sáu căn nhiễm sáu trần. Người nào ăn chay mà cảm thấy khó khăn, đó bởi do còn thích món ăn ngon, nghĩa là thiệt căn còn nhiễm vị trần. Vì thế, muốn dễ được tịnh tâm, người Phật-tử nên tập lần từ ăn chay kỳ đến chay trường.

 

Có kẻ hỏi: - Tại sao bên Phật-giáo Nam-tông vẫn còn ăn mặn? Và nếu không thanh tịnh, tại sao những vị bên phái ấy lại chứng thánh-quả?


Xin đáp: - Ðức Phật vì tùy hoàn cảnh căn cơ, trong khi nói giáo pháp Nhị-thừa, phương tiện tạm mở cho ăn ngũ-tịnh-nhục (không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết, thịt con thú tự chết, thịt loài thú khác ăn còn dư). Nhưng đến khi thuyết qua giáo nghĩa Ðại-thừa, Ngài lại triệt để cấm dùng đồ huyết nhục, vì lẽ mất lòng từ bi bình đẳng, và gây nhân vay trả luân-hồi. Như trong kinh Lăng-Nghiêm, Ðức Thế-Tôn còn khuyên không nên dùng đồ bằng da, bởi còn thọ dụng một thân phần của chúng-sanh tức là còn mắc nợ nó, huống chi là thường ăn thịt?

 

Trong kinh Ương-Quật-Ma, ngài Văn-Thù Bồ-Tát thưa: “Bạch Thế-Tôn! Phải chăng nhân vì Như-Lai-tạng, nên chư Phật không ăn thịt?


Ðức Phật bảo: “Nầy Văn-Thù! Tất cả chúng-sanh từ vô thỉ đến nay sống chết luân-hồi từng cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường cũng như trò hát. Thân mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế nên chư Phật không ăn thịt. Lại nữa, chúng-sanh giới tức là ngã giới, thịt loài khác chính là thịt của mình, nên chư Như-Lai không ăn thịt.


Nầy Văn-Thù! Như con bò tự chết, người chủ dùng da nó làm giày dép đem bố thí kẻ giữ giới. Như bậc giữ giới không thọ tức là pháp Tỷ-khưu; nếu thọ trì tuy không phải phá giới, song thiếu tâm từ bi. Cho nên, không thọ dụng thân phần của hữu-tình, tức là lần lượt lìa nhân duyên sát sanh vậy”.

 

Ðời Ðường bên Trung-Hoa, Ðạo-Tuyên luật-sư giữ giới tinh nghiêm, nên chư thiên thường hiện thân ủng hộ. Cứ theo bộ Tuyên-Luật-Sư-Cảm-Ứng-Ký, Tứ-Thiên-Vương thưa với Tuyên-sư rằng:


“Thuở Ðức Như-Lai còn ở đời, một hôm Ngài phóng ánh sáng lớn bảo các thiên, long, quỷ, thần:

 

- Sau thời chánh-pháp diệt tận, có nhiều vị Tỷ-khưu chấp theo giáo tích Tiểu-thừa của ta, không hiểu ý nghĩa Tỳ-ni, bảo rằng ta cho các Sa-môn ăn thịt. Vì thế, trong Tăng-già-lam hiện ra cảnh tượng sát sanh cũng như lò thịt. Lại có các vị Tỷ-khưu mặc đồ tơ lụa, gần gũi nơi quán rượu dâm xá, không học ba tạng, chẳng giữ cấm giới, làm cho đạo pháp ta suy vi, thật đáng thương xót! Nên biết từ vô lượng kiếp đến nay, ta tu Bồ-Tát-hạnh đã xả bỏ đầu, mất, tủy, não, vì tâm từ bi không tiếc thân mạng để bố thí cho loài hữu-tình, có lẽ nào lại bảo đệ-tử mình ăn thịt chúng-sanh? Ta niết-bàn rồi, các Tỷ-khưu thay thế ta làm thầy trời người dẫn dạy hữu-tình khiến cho đắc đạo quả; có lẽ nào bậc thiên nhơn sư mà lại ăn thịt chúng-sanh ư? Khi ta mới thành đạo, tuy trong luật có mở ra cho ăn năm thứ tịnh nhục, nhưng đó không phải thật là thịt của bốn loài, mà là thịt do sức thiền định bất tư nghì của ta biến hóa ra. Trong các kinh Niết-Bàn, Lăng-Già, ta không cho người trì giới ăn thịt. Nếu có Tỷ-khưu nào bảo rằng trong Tỳ-ni-giáo, Phật cho ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời ma thuyết, là phỉ báng ta!”

 

Lời Phật đã dạy như thế, nếu ăn thịt cá mà không trước nhiễm cũng có thể chứng quả thánh như các vị bên Nam-tông đã tu chứng. Nhưng nếu so hai phương diện ăn chay và mặn, thì ăn chay dễ đoạn nhiễm tâm hơn; đến như về nghĩa từ bi bình đẳng, bên ăn chay lại hoàn toàn hợp lý. Thế nên biết giáo nghĩa Nhị-thừa chỉ là phương tiện tạm thời, giáo nghĩa Ðại-thừa mới là chân thật cứu cánh. Vậy người tu nên hướng theo lẽ phải và xét lại năng lực của mình, đừng quá cầu cao tự cho là bậc viên dung tự tại, vội nói câu “Tửu nhục xuyên trường quá. Bất ngại bồ-đề đạo” (Chất rượu thịt ăn vào cũng ra ngoài, không ngại chi đến sự giải thoát cả) mà lầm.

 

4.- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ thực hành trên đường tu: Ăn chay nếu đúng cách thì hợp với vệ sinh, và khiến cho thân tâm thanh tĩnh nhẹ nhàng thuận tiện trên đường tu tập. So lại thì khi dùng mặn, ta cảm thấy trong người nặng nề mệt nhọc, chất ăn khó tiêu hơn. Các nhà bác học hữu danh Ðông Tây đã công nhận lẽ đó. Như ông Sénèque, một triết gia, đã nói: “Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay. Do đó loài người bị nhiều bịnh mà chết sớm”. Những y khoa bác sĩ trứ danh như các ông: Soteyko, Varia Kiplami cũng bảo: “Trong các thứ thịt có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người”. Và bà White, nhà nữ bác học, sau một cuộc thí nghiệm đã tuyên bố: “Các thứ hột, trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ấy chỉ cần nấu nướng một cách đơn giản, thì ăn vào hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho con người thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh được biết bao nhiêu là bịnh tật!” Chất máu thịt vốn là uế trược, hơn nữa loài thú khi bị giết sanh lòng uất hận, độc khí lưu trữ vào tế bào, hoặc gặp nhằm những con vật mang bịnh, như bịnh lao, bịnh sán..., nếu người ăn vào làm sao khỏi sanh đau yếu?

 

Có vị hỏi: - Nếu ăn chay cũng đủ sinh tố, tại sao tôi thường thấy người ăn chay trường phần nhiều đều có vẻ xanh và gầy?

 

Xin đáp: - Ðó là do nhiều nguyên nhân khác biệt, không phải lỗi ở sự ăn chay; chẳng hạn như vấn đề tâm lý, hoặc không biết cách thức dùng chay. Về tâm lý, như có người ăn chay với tánh cách gắng gượng, mãi thèm những đồ mặn, lầm nghĩ rằng ăn chay thiếu sức khỏe, thường đem lòng lo lắng e ngại. Hoặc có người tu, mà chưa diệt được niệm tưởng mơ sắc dục, hoặc làm việc suy nghĩ quá nhiều. Những tâm trạng ấy có ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe, bằng chứng như ta thường thấy người nào trải qua một đêm lo nghĩ, sáng ra gương mặt họ hiện rõ vẻ tiều tụy bơ phờ. Về việc không biết cách dùng chay, như những người vì lỡ phát nguyện, nên ăn chay một cách bắt buộc lấy có, chỉ dùng tương chao, ít lát dưa, hoặc muối sả ớt cho qua bữa. Hơn nữa nhiều người quan niệm tu là phải khổ hạnh, nên không mấy chú ý đến việc ăn uống; hoặc kho đầu củ cải, vỏ dưa, chiên xơ mít, hay làm những thức ăn giống đồ mặn rất công phu, song thật sự không có bao nhiêu chất bổ. Ngoài ra, tập tục của các chùa Việt-Nam thiên về sự tụng niệm, cúng lễ, thường khi liền cả đêm ngày. Sự sanh hoạt của Phật-giáo Việt-Nam lại nghèo, chư tăng ni thiếu phương tiện học tập, phải dùng sức quá nhiều, nên vị nào khi học thành tài hầu hết đều suy gầy, đau yếu. Ðó là đại lược những nguyên do khiến cho người tu thường kém sức khỏe, chẳng phải lỗi ở nơi không ăn cá thịt. Nếu ăn chay mà hợp cách, với lòng hiểu đạo hoan hỷ, và đường lối tu không thái quá bất cập, thì đã ít bịnh tật, lại thêm có lợi ích cho thân tâm.

 

Tóm lại, ý nghĩa của ăn chay là vì lòng từ bi, vì tránh ác báo, vì lìa trần nhiễm, vì thuận ích cho đường tu. Nếu lập cơ bản nơi bốn điểm nầy mà dùng chay, thì sự thực hành sẽ bền và tăng thêm phước huệ. Như trái với cơ bản đó, tất việc làm chỉ có tánh cách thời gian, khó bền bỉ, kết cuộc không được lợi ích gì thiết thật trên đường tu.

 

 

Phật Học Tinh Yếu

Hòa Thượng Thích Thiền Tâm





THÁNG 7 ÂM LỊCH NĂM QÚY MÃO 2023


 

NGÀY 13.- VÍA ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

(tức ngày 28/08/2023)



KINH THỦ LĂNG NGHIÊM




NGÀI ĐẠI THẾ CHÍ PHÁP VƯƠNG TỬ


VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI THẤY PHẬT

 

Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chổ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời nầy sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có  mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi nầy tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."


NGÀI ĐẠI THẾ CHÍ PHÁP VƯƠNG TỬ




MUỐN LÀM PHẬT THÌ “NIỆM PHẬT”

(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH)

 

 


KHAI THỊ “ KINH THỦ LĂNG NGHIÊM” 

(của HT. THÍCH THIỀN TÂM)

 

Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra “CHƠN TÂM THƯỜNG TRỤ”, thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.”

 

Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói quanh-co.

 

A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích 32 tướng tốt của Như Lai, Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do TÂM và MẮT của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”

 

Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.”

 

Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu.

 

Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng TÂM và mắt nay ở chỗ nào?

 

(KINH LĂNG NGHIÊM)

 

 

Mỗi câu tràng hạt (THỦ NHÃN) Phật là tâm

Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!

Bể Phật dung hòa tâm với cảnh

Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh

 

Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng

Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.

Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn

Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.

 

(NIỆM PHẬT THẬP YẾU- HT. THÍCH THIỀN TÂM) 


NGÀY 15.- LỄ VU LAN BỒN

(tức ngày 30/08/2023)



SÁM VU LAN

(Quỳ đọc)

  

Ðệ-tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng Bảy,  

Gặp hội Vu-Lan,
Phạm-Vũ huy-hoàng,
Ðốt hương đảnh lễ

Mười-phương Tam-thế,
Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Noi gương Đức Mục-Kiền-Liên,
Nguyện làm con thảo,

Lòng càng áo-não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng-thành,

“MẸ” dày đau khổ,
Ba năm nhủ bộ,
Chín tháng cưu mang.

Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,

Ấm no đầy đủ,
Cậy có công “CHA”,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ,
Quyết cùng hoàng-vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo,

“ÐỆ TỬ” ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kỉnh;
Ðạo tràng thanh-tịnh,
Tăng-bảo trang-nghiêm,

Hoặc thừa TỰ TỨ.

Hoặc hiện tham-thiền,
Ðầy đủ thiện duyên,
Dủ lòng lân-mẫn,


Hộ-niệm cho:

“Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Ðượm nhuần mưa Pháp,”



Còn tại thế:

“Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu-trì,”



Ðã qua đời:

“Ác-đạo xa lìa,
Chóng thành Phật-quả,”


Ngưỡng mong các Đức Như-Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia-hộ.

 

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN TÔN GIẢ (3 lần)



PHẬT THUYẾT

KINH VU LAN BỒN 

 

 

1. TA TỪNG NGHE LỜI TẠC NHƯ VẦY :

 

Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ

Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,

Mục-liên mới đặng lục-thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.

 

Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu-hạnh vi tiên,

Bèn dùng ĐẠO NHÃN dưới trên kiếm tầm.

 

Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,

Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.


Mục-liên thấy vậy bi-ai,

Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.

 

Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,

Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.

Thấy cơm mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp dựt của bà.

Cơm đưa chưa tới miệng đà,

Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.


 

2. Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,

Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,

Mau mau về đến giảng-đường,

Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn.


Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,

Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.

Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,

Một mình không thể ai cầu được đâu.

Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên

Cùng là các bực Thần-kỳ

Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương

 

Cộng ba cõi sáu phương TỤ TẬP,

Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.

Muốn cho cứu đặng mạng người,

Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.

 

Pháp cứu-tế ta toan giải nói

Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn

Bèn kêu Mục-thị đến gần,

Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi

Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ

Mười phương Tăng đều dự lễ này

Phải toan sắm sửa chớ chầy

Thức ăn TRĂM VỊ trái cây NĂM MÀU

 

Lại phải sắm giường nằm nệm lót

Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,

Món ăn tinh-sạch báu mầu

Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng

 

Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực

Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng

Lại thêm cha mẹ hiện-tiền

Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn.


Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ

Dầu ở đâu cũng TỤ HỘI về.

Như người Thiền-định sơn-khê

Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả

Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh

Hoặc người thọ hạ kinh-hành

Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng

 

Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát

Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn

Hoặc chư Bồ-tát mười phương

Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh

 

Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh

Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm

Tất cả các bực Thánh, Phàm

Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa


Người nào có sắm ra vật-thực

Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời

Hiện-tiền phụ-mẫu của người

Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn

Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi

Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.

Như còn cha mẹ hiện-tiền

Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ-trường

 

Như cha mẹ bảy đời quá-vãng

Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung

Người thời tuấn-tú hình-dung

Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân


Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng

Phải tuân theo thể-thức sau này:

Trước khi thọ thực đàn chay

Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.

Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ

Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên

Cho xong ý-định hành-thiền

Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dưng.

 

Khi thọ-dụng nên an vật-thực

Trước PHẬT TIỀN hoặc tự THÁP TRUNG:

Chư Tăng chú nguyện viên dung

Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa

Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt

Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng

Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng

Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn

Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy

Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan.


 

3. Mục-liên bạch với Phật rằng:

"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn

 

Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra

Như sau đệ-tử xuất-gia

Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh

 

Ðộ cha mẹ còn đương tại thế

Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"


Phật rằng: "Lời hỏi rất thông

Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo

 

Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ

Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần

Tam-công, tể-tướng, bá-quan

Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần

Như chí muốn đền ơn cha mẹ

Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm

Ðến rằm tháng bảy mỗi năm

Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về

 

Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỉ

Phải sắm sanh BÁ VỊ cơm canh

Ðựng trong bình-bát tinh-anh

Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường

 

Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ

Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi

Cùng cầu thất-thế đồng thì

Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên

 

Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp

Lại xa lìa nạn khổ cực thân


Môn-sanh Phật-tử ân-cần

Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên

 

Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo

Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh

Ngày rằm tháng bảy mỗi năm

Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền

Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt

Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu

 

Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ

Mới phải là Thích-tử Thiền-môn

Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn

Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan


Mục-liên với bốn ban Phật-tử

Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành !

 


 

PHẬT THUYẾT

KINH VU LAN BỒN 



BÁO PHỤ MẪU ÂN CHÚ 

NAM MÔ MẬT LẬT ĐA ĐÁ BÀ DẠ TÁ HA. 

(108 BIẾN)

 


NGÀY 30.- VÍA ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT

(tức ngày 14/09/2023)





Ðịa-Tạng Bồ Tát

 

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

 

Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.


KINH VĂN:

Khi nghe Ðức Phật Như Lai tuyên bày ngợi khen Ngài Ðịa-Tạng Ðại Sĩ xong, Ngài Phổ Quảng Bồ Tát liền quỳ xuống chắp tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng:


“Bạch Thế-Tôn! Từ lâu con rõ biết vị Ðại Sĩ này có thần lực cùng đại nguyện lực không thể nghĩ bàn như thế rồi, song nay vì muốn những chúng sanh trong đời sau này rõ biết các sự lợi ích đó, nên con mới bạch hỏi cùng đức Như Lai.


Vâng! Con xin cung kính tin nhận lời Phật dạy.


Bạch đức Thế-Tôn! Kinh này đặt tên là gì và định cho con lưu bố thế nào?'


Ðức Phật bảo Ngài Phổ Quảng: Kinh này có ba danh hiệu: 

 

1)   Một là “Ðịa-Tạng Bổn Nguyện Kinh”,

2)   Cũng gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Hạnh kinh” đây là tên thứ hai,

3)   Cũng gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Thệ Lực kinh” đây là tên thứ ba.


Do vì Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay phát nguyện rộng lớn làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên các ông phải đúng theo tâm nguyện mà lưu hành truyền bá kinh này'.


Nghe Ðức Phật dạy xong, Ngài Phổ Quảng Bồ Tát tin chịu, chắp tay cung kính lễ Phật lui ra.



Lời bàn: 


Đức Phật thuyết kinh thì  PHẢI có những người đương cơ, thay mặt cho ĐẠI CHÚNG, hỏi PHẬT hoặc TRANH LUẬN VỚI PHẬT, như PHỔ QUẢNG BỒ TÁT hỏi PHẬT chẳng hạn. Khi  tất cả ĐẠI CHÚNG TIN CHỊU, THÌ MỚI Y GIÁO PHỤNG HÀNH. TẤT CẢ KINH ĐỀU NHƯ VẬY CẢ.


Còn kinh “VÔ VẤN TỰ THUYẾT”, như KINH A DI ĐÀ thì sao? Ai là chúng ĐƯƠNG CƠ?


Chính là hằng hà sa số CHƯ PHẬT Ở SÁU PHƯƠNG LÀM CHÚNG ĐƯƠNG CƠ.

 

 

KINH VĂN:

Xá- Lợi- Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này:

 

“Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền trược, não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.

 

Xá- Lợi- Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!  

 

 

( PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ, CÒN KHÓ HƠN LÀ Ở CÕI TA BÀ NGŨ TRƯỢC TU  CHỨNG VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC).

 

 

KINH ĐỊA TẠNG : Từ phẩm thứ 7 cho đến phẩm thứ 13 là “TRUYỀN BÁ LƯU THÔNG” CHO CHÚNG SANH BIẾT ĐƯỢC KINH NẦY. TỨC LÀ LÀM CHO CHÚNG SANH THẤY NGHE ĐƯỢC BỔN NGUYỆN, BỔN HẠNH VÀ THẦN LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHÌ CỦA ĐỊA TẠNG BỒ TÁT, MÀ Y THEO ĐÓ TU HÀNH “PHÁT BỒ ĐỀ TÂM”. VẬY AI LÀM VIỆC NẦY? CHÍNH LÀ “BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM”.

 

KINH VĂN:

Ðức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát có nhơn duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Ðề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy hình nghe tên của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không biết được.

Này Quán Thế Âm Bồ Tát! Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui luôn”.

Comments

Popular posts from this blog