KINH VỊ TẰNG HỮU THUYẾT NHÂN DUYÊN
Dịch giả: HT Thích Hành Trụ
MỤC LỤC
1.- Tựa
2.- Lời nói đầu
3.- Phần tự
4.- Phần chánh tông
6.- Phần lưu thông
7.- Lời phụ
Tựa
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta,
làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin;
không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu
này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài
thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên
nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác
nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai
hại.
Chúng ta nên biết: "Bồ
Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phu đó là hóa thân Bồ
tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy
là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành
xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
- Không rõ nguyên nhân mà cứ
tin Ngài là tin theo lối mê tín.
- Tưởng Ngài là một vị Thần
Thánh u u minh minh, linh linh hiển hiển, có quyền ban phước hay giáng
họa là tin theo lối dị đoan.
- Tin Ngài, thờ phụng Ngài, sau
khi chết được Ngài đem về cõi Cực Lạc, mà không biết Ngài là người
chi, không rõ nguyên nhân Ngài đã làm những gì, ấy là tin
theo lối thần quyền.
Như vậy, muốn tin một cách chính
đáng "chánh tín" - Là một Phật tử chơn chánh không nên
tin vào thần quyền, dị đoan và mê tín như trên;
mà cần phải học hỏi nghiên cứu giáo lý Phật Đà một
cách tường tận rồi mới tin và làm theo.
Chúng ta học Kinh này nên có sự suy
gẫm "Chánh tư duy"; càng đọc sâu càng thấy rõ trong đó có rất
nhiều nguyên nhân và sự tích. Vậy các tín đồ Phật
giáo tin Phật bằng cách nào, Đức Thế tôn đã dạy đầy đủ trong quyển
Kinh này.
Nam mô Bổn sư Thích-Ca
Mâu-Ni Phật
Dịch giả CẨN CHÍ
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy: "Nếu người muốn rõ biết hết thảy Phật ba đời, hãy nghiệm trong Pháp giới tánh, tất cả Duy Tâm tạo"
Luận: Duy tâm tịch tịch biến
khắp mười phương, Pháp tánh như như viên dung một trí
mầu, ứng nơi cảnh sắc thinh, lưu lộ chiếu trong tầm mắt
Tựu trung: Phản vọng quy chơn. Trực
hạ: Bội trần hiệp giác. Pháp mầu của Tâm như vậy, muốn khiến chúng
sanh ngộ nhập.
Ôi! Căn cơ đã chẳng một, pháp
lập có nhiều môn: Hoặc Kinh "Tu Đa La", hoặc kệ "Dà
Đà", Kinh "Bổn Sự", kinh "Bổn Sanh", kinh Vị Tằng
Hữu cũng nói Nhơn Duyên và lời ví dụ với Kinh Kỳ Dạ, Ưu
Bà Đề Xá Kinh.
Chính bộ Kinh của Ta đây, tùy
thuận chúng sanh mà nói, Ta lập phương tiện đây khiến đặng
vào HUỆ PHẬT. Đây là từ đầu chí cuối, Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên,
mà xuất hiện ra đời.
Riêng Kinh này nhan đề: "Vị Tằng Hữu
Thuyết Nhân Duyên". Vì sao? Bởi do Phật vì độ ông La Hầu La xuất
gia. Nên trong hội này nhơn Thiên được nghe Pháp chưa từng có.
Cho nên tên Kinh "Vị Tằng hữu Thuyết
Nhân Duyên". Song chẳng những kinh này tên là "Vị Tằng Hữu"
mà vô lượng pháp môn của Phật nói ra cũng lại như vậy.
Cho nên: Hôm nay trong hội hiệp khắc
Kinh này làm mối đầu, kính in Pháp Bảo vô lượng bất khả tư nghì,
ấn tống cả thế giới bất khả tư nghì, rộng ích chúng sanh bất
khả tư nghì.
Nguyên Kinh này: Trong Năm thời, Tám
giáo: Nói Đốn giáo cũng được. Nói Tiệm giáo cũng được.
Nói Bất định giáo cũng được. Nói Bí mật giáo cũng được. Vì
sao? Do vì đủ nhân duyên nói bốn món "Tất Đàn"; như nói:
1. Chúng sanh nghe
pháp môn này hoặc đặng lợi ích hoan hỷ, ấy là thế giới Tất
Đàn
2. Hoặc là đặng lợi ích sanh
thiện là vị nhơn Tất Đàn
3. Hoặc đặng lợi ích biệt ác,
là đối trị Tất Đàn.
4. Hoặc đặng lợi ích nhập
chánh lý, ấy đệ Nhất nghĩa Tất Đàn; Bốn hóa PHÁP và bốn Hóa
NGHI như vậy, dung nhiếp khó nghĩ bàn. Cho nên nói:
"Phật giáo môn, diệc
phục như thị".
Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân
Duyên: thượng, hạ, thành 1 quyển.
KHAI KỆ KINH
Pháp mầu Vô thượng rất thẳm
sâu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm
mầu.
ĐỨC PHẬT THÍCH CA
NÓI KINH NHÂN DUYÊN CHƯA TỪNG CÓ
Đời Tiêu Tề, Ngài Tam Tạng Sa môn THÍCH
ĐÀM CẢNH dịch
PHẦN TỰ
Đây là lời của ngài A Nan thuật:
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở nước Xá Vệ, rừng cây của Thái tử Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc.
Khi bấy giờ, Đức Thế tôn bảo đệ
tử lớn của Ngài là ông Mục Kiền Liên rằng: Nay ngươi hãy trở
về thành Ca Tỳ La kia hỏi thăm Phụ vương Ta là
vua Duyệt Đầu Đàn cùng di mẫu Ta là bà Ba Xà Ba Đề và
ba vị Hoàng thúc Ta là vua Học Phạn v.v... Nhân dịp này lại an ủi giùm thân
mẫu của La Hầu La là bà Da Du Đà La, bảo nàng
nên dứt tình mẫu tử để cho La Hầu La đi làm
Sa-di, tu tập theo Thánh đạo. Vì sao?
Vì tình ân ái của mẹ
con chỉ vui trong giây phút, chết rồi vào địa ngục. Mẹ
con đều không thấy nhau, mù mù mịt mịt biệt ly dài dặn, chịu khổ muôn
phần, sau rồi ăn năn không kịp; chi bằng cho La Hầu La đi
tu đắc đạo, sẽ trở về độ mẹ, hằng dứt hẳn cội gốc Sanh, Già, Bệnh,
Chết, được đến quả Niết bàn như Ta nay vậy
Bấy giờ, Mục Liên vâng mệnh liền nhập
định ít như trang lực sĩ trong khi co duỗi cánh tay, đã đến
thành Ca Tỳ La, đến chỗ vua Tịnh Phạn thưa rằng: "Tâu Đại
vương! Đức Thế tôn ân cần không xiết, hỏi thăm đức Vua
ở nhà có được yên ổn không? Và sức lực có được mạnh khỏe không?".
Và bà đại Phu nhân Ba Xà Ba Đề, cùng ba vị thúc phụ là vua
Học Phạn v.v... cũng lại thăm hỏi yên ổn mạnh khỏe như thế.
Bấy giờ, nàng Da Du Đà La vừa nghe
tin Phật sai sứ đến chỗ vua, song nàng chưa biết có ý gì, nên nàng liền
sai quan thanh y đi dọ tin tức. Quan thanh y đi rồi trở về thưa
lại rằng: "Thưa bà! Đức Thế tôn sai sứ về rước Thái tử La
Hầu La độ đi làm Sa-di". Bà Da Du Đà La nghe được tin
ấy rồi bèn đem Thái tử La Hầu La lên trên lầu cao và dặn bảo vị
Giám quan đóng hết các cửa cho thật chắc chắn.
Lúc ấy, ngài Mục Liên đã đến cửa
cung nhưng không thể vào đặng mà cũng không có người để thông tin. Ngài liền dùng
sức thần thông bay lên lầu cao đến trước chỗ ngồi của bà
Da Du Đà La mà đứng. Bà Da Du Đà La vừa thấy
ngài Mục Liên đến thì nửa sợ nửa mừng, túng thế phải đứng dậy cung
kính làm lễ hỏi thăm: "Thưa Ngài! Ngài đi đường xa có được khỏi
sự mệt nhọc hay không?". Rồi bà sai người sửa soạn chỗ thỉnh ngài Mục
Liên và bà lại hỏi thăm ngài Mục Liên rằng: "Thưa
Ngài, Đức Thế tôn có được mạnh khỏe chăng? Và về việc giáo
hóa chúng sanh có khỏi mệt nhọc không? Lại hôm nay sai thượng nhơn về
đến đây có việc gì?" Đức Mục Liên thưa rằng: "Thưa
bà! Thái tử La Hầu đã được chín tuổi rất nên cho đi xuất
gia tu học Đạo Thánh. Sở dĩ vì sao?
Vì tình ân ái của mẹ với
con vừa ý chẳng có bao lâu, một mai mà thân mạng chết rồi
phải bị đọa vào ba đường ác. Tình ân ái biệt ly mờ mờ
mịt mịt thì chừng đó mẹ nào có biết con, con nào có biết mẹ. Chi bằng La
Hầu tu đắc đạo sẽ trở về độ mẹ hằng xa
lìa các sự ưu hoạn là: Sanh, Già, Bệnh, Chết. Mà được đến
cõi niết bàn như Đức Thế tôn hôm nay vậy".
Bấy giờ, bà Da Du Đà
La đáp lại lời của ngài Mục Liên rằng: "Thưa Ngài! Phật Thích
Ca Như Lai khi còn làm Thái tử cưới tôi làm vợ. Tôi hầu hạ Ngài
như hầu hạ Thiên Thần, chưa từng có điều chi sơ sót đối với
Ngài, vợ chồng ăn ở cùng chung nhau chưa đầy ba năm Ngài vộ bỏ thú
vui của ngũ dục, cung điện thành trì, trốn đến ở nơi chốn Vương Điền.
Đức Vua thân hành đi rước mà Ngài quày quả chẳng chịu về, trở lại còn
sai Xa Nặc dắt ngựa trắng về trả. Ngài tự quyết thề nguyền đến chứng
thành Đạo mới trở về, mặc áo bằng da nai giống như người cuồng dại, ở
ẩn chốn núi rừng, chuyên tu khổ hạnh được sáu năm, lúc
đặng thành Phật, khi trở về nước cũng chẳng hỏi đến người thân,
ân xưa quên hẳn, tuồng như khách lạ qua đường, xa lìa cha mẹ, ở ngụ
nơi xứ người. Khiến cho mẹ con tôi côi cút quạnh hiu, mẹ
góa con côi một mình trơ trọ, còn sống đây cũng không có người nhờ cậy,
chỉ còn một cái chết mà thôi.
Song mạng người là chí trọng, nên tôi
không lẽ tự vẫn, đành phải ôm sầu nuốt thảm. Tuy là mạng còn sống, tuy là ở với loài
người mà chẳng bằng một con súc vật, cái họa trong các cái thảm họa
đâu có cái thảm họa nào hơn ư! Thế mà hôm nay lại còn sai người về muốn dứt con
tôi đi làm quyến thuộc, tệ sao mà tệ lắm vậy. Thái tử thành đạo tự
nói rằng: "Từ Bi", mà cái đạo Từ Bi lẽ ra làm cho mọi
người yên vui mới phải. Cớ sao nay lại làm biệt ly mẹ
con người, trong những cái rất khổ, đâu có cái khổ nào bằng cái khổ ân
ái biệt ly! Ngài lấy đây thử nghĩ thì Từ Bi chỗ nào?". Bà lại
thưa với ngài Mục Liên nữa rằng: "Thưa Ngài! Ngài cảm phiền đem
những lời của tôi về thưa lại với Đức Thế tôn!".
Bấy giờ, Mục Liên bèn
dùng phương tiện mỗi mỗi nhân duyên tùy nghi giảng dụ
đi lại đôi ba lần mà bà Da Du Đà La chắc ý không nghe. Túng
thế, Ngài phải từ tạ trở về chỗ vua Tịnh Phạn tỏ bày tự
sự như trên. Vua nghe lời ấy rồi bèn sai người mời bà đại Phu
nhân là bà Ba Xà Ba Đề đến. Vua bảo với bà rằng: "Này
khanh! Con ta là Tất Đạt Đa sai ngài Mục Liên về rước La
Vân, muốn cho La Vân vào đạo tu học Pháp Thánh,
nhưng Da Du Đà La là người đàn bà ngu si, chưa hiểu pháp yếu,
nên tâm ý cứ nằn ghịt thẳng dây tình ân ái không chịu buông thả. Vậy
khanh hãy đến đó giảng dụ đôi lời nữa, khiến cho tâm nó khai ngộ".
Lúc bấy giờ, Đại Phu nhân liền đem
theo năm trăm kẻ thanh y đi đến trong cung của bà Da Du Đà
La ở, dùng đủ cách phương tiện tùy nghi giảng dụ cũng đến
đôi ba phen mà bà Da Du Đà La vẫn không chịu nghe
còn trở lại thưa với bà Đại Phu nhân rằng: "Thưa mẹ! Mẹ
nghĩ coi, hồi con còn ở nhà cha mẹ con thì các vua trong tám nước đều
đến nói con mà cha mẹ con chẳng hứa. Sở dĩ vì sao? Vì bởi Đức
Phật Thích Ca hồi còn làm Thái tử tài trí cao xa, võ nghệ
hơn người, thế cho nên cha mẹ con mới gả con cho đó.
Nhưng Thái tử bấy giờ biết cuộc đời là giả tạm nên quyết
chí xuất gia học đạo, đã yên bổn phận thì thôi, cớ sao lại ân cần bảo
người về bắt con tôi? Luận cho đúng lý, người ta cưới vợ chính vì sự ân
ái sum họp vui vầy, muôn đời sanh con đẻ cháu truyền giòng nối dõi để kế
nghiệp tổ tông, đó là cái lẽ chính trong thế gian, thế mà hôm nay Thái
tử đã đi tu rồi, sao lại còn về bắt La Hầu muốn khiến cho
đi xuất gia, thì té ra tuyệt giòng trị nước nào có nghĩa lý gì
đâu?".
Từ nãy đến giờ Hoàng hậu ngồi nghe những
lời ấy rồi lặng lẽ làm thinh không biết nói sao được!
Khi bấy giờ, Đức Thế tôn liền
sao vị Hóa nhân ở giữa hư không bảo rằng: "Này Da Du
Đà La! Bà còn có nhớ việc thề nguyền hồi trước kia không? Phật Thích
Ca Như Lai đương đời đó chính là tôi nay đây. Khi tôi còn làm đạo Bồ
tát, tôi dùng năm trăm quan tiền, theo bà mua đặng năm cành hoa
sen cúng dâng lên cho Đức Phật Định Quang. Lúc ấy, bà cầu
tôi đời đời sanh chỗ nào cùng nhau làm chồng vợ". Song tôi chẳng
chịu lại bảo bà rằng: "Tôi làm đạo Bồ tát đời nào, đời
nào tôi cũng thực hành theo bổn nguyện của tôi. Nghĩa là bố
thí tất cả không trái ý mọi người. Bà nếu có thể bằng lòng
như vậy, thì tôi mới cho làm vợ tôi". Khi đó, bà lập lời thệ rằng:
"Nguyện đời đời sanh ra chỗ nào, quốc thành thê tử cùng với thân
mạng tôi, mặc dù ông muốn cho ai thì cho, tôi thề không bao giờ có tâm hối
hận". Thế mà nay vì cái gì mà bà lại ái tiếc La Hầu không
cho đi xuất gia học đạo Thánh vậy".
Da Du Đà La nghe lời ấy rồi bỗng
nhiên nhớ lại nhân duyên đời trước mọi sự rõ ràng như cái
việc mới thấy ngày hôm qua, tâm tình thương con tự
nhiên tiêu hết. Bà liền sai người mời ngài Mục Liên đến để
bà sám hối từ tạ và cầm tay La Hầu phó thác cho ngài Mục
Liên, cùng con biệt ly với đôi hàng giọt lệ. Lúc ấy, La Hầu tháy
mẹ sầu khổ liền quỳ xuống chắp tay từ tạ mà thưa rằng:
"Thưa mẹ! Xin mẹ ở nhà chớ buồn, La Hầu con nay đến viếng Đức
Thế tôn rồi con sẽ trở về cùng mẹ thấy mặt". Khi đó,
vua Tịnh Phạn vì muốn an ủi bà Da Du Đà La để
cho bà được vui lòng.
Liền đòi các nhà Hào tộc trong nước nhóm
họp mà nói rằng: "Con của vua Kim Luân vương, nay sẽ đến nước
Xà Bà Đề theo Phật Thế Tôn xuất gia học đạo. Vậy phiền
các khanh mỗi người đều cho một con đi theo cháu trẫm". Vua vừa
phán xong, thì ai nấy đều vâng lời kính cẩn phụng mạng.
Tức thời nhóm họp có năm mươi người đi
theo La Hàu đến nơi Đức Phật cúi đầu làm lễ. Khi đó, Phật bảo ông A
Nan cạo đầu cho La Hầu La và năm mươi vị vương tôn công tử thảy
đều cho xuất gia. Dạy ông Xá Lợi Phất làm Hòa thượng.
Ngài Đại Mục Kiền Liên làm A Xà Lê, truyền trao cho mười Giới pháp
đều làm Sa-di. Song La Hầu tuổi còn thơ ấu đã quen theo
thói ngạo mạn, chỉ thích chơi đùa chẳng chịu nghe pháp, Phật hằng dạy
bảo mà ông vẫn không nghe, chẳng biết làm sao được.
PHẦN CHÁNH TÔNG
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc nghe
con của Phật là La Hầu đi xuất gia làm sa-di. Vua cùng với
quần thần Phu nhân, Thái tử, hậu cung, thể nữ, Bà-la-môn và cư
sĩ cung kỉnh đi theo. Buổi trời sáng sớm đồng đi đến chỗ Phật làm lễ hỏi
thăm và xem con của Phật là Sa-di La Hầu. Rồi mỗi người ngồi một
phía, nhân đó Phật lại vì nói pháp. Nhưng vua và quần thần vì đã quen
thói kiêu mạn nên nghe Phật nói pháp ngồi lâu chán nản muốn từ tạ lui
về.
Khi bấy giờ, Đức Thế tôn biết
vua mới ngộ, tín căn chưa vững, toan muốn khai ngộ cho vua
và quần thần được nhiều lợi ích. Nên bảo A Nan rằng: "Ông
nên đi kêu Sa-di La Vân và tất cả quyến thuộc đều đến nhóm
đây nghe Ta nói pháp". Ông A Nan đi kêu trong chốc lát đều nhóm
đủ.
Phật lại bảo vua rằng: "Người đợi
giây phút nghe Ta nói pháp". Vua liền vòng tay bạch rằng: "Thưa Đức
Thế tôn! Nay thân con đây quen thói vui chơi đã nhiều, không có thể
ngồi nghe lâu được, khổ lắm mong Phật tha thứ". Phật liền bảo Vua rằng:
"Thế cũng không lấy gì làm khổ. - Là vì sao? Vì bởi đời trước gieo trồng cội
phúc cho nên đời nay được làm vua, thường ở trong chốn thâm cung thỏa
tình ngũ dục, lúc ra vào có kẻ hầu hạ, chân không chấm đất sao gọi
là khổ? Cái khổ ở trong Tam giới đâu có cái khổ nào bằng các nạn khổ
nơi đường địa ngục, Súc sanh và Ngạ quỷ, những cái khổ như
trên Ta đã từng nói rồi".
Phật liền quay lại bảo La
Vân rằng: "Này La Vân con ơi! Gặp Phật ra đời rất khó, nghe
được Chánh pháp rất khó, giữ được thân người là khó và đắc đạo cũng
khó, mà con nay được thân người, lại gặp Phật ra đời cớ sao biếng lười, chẳng
chịu nghe pháp vậy?". La Vân bạch Phật rằng:
"Thưa Đức Thế tôn! Pháp Phật tinh diệu, tâm trí con còn non nớt
đâu đặng nghe nổi pháp mầu của Đức Thế tôn. Trước con đã từng nghe, nay lại
quên hết, luống nhọc tinh thần, không đặng một chút, và con nay tuổi còn
nhỏ, tình ý hay buông lung, đợi đến chừng con tuổi lớn khôn, may
ra có khác chút nào mới nghe pháp được". Phật bảo La
Vân: "Muôn vật vô thường, thân người cũng khó giữ được, vậy ngươi có
thể giữ được mạng ngươi đến lớn không?".
"Dạ thưa Đức Thế tôn! La
Vân con đây không thể giữ được, như Phật há chẳng giữ giùm mạng con
ư?". Phật bảo: "Này La Vân! Ta còn không giữ được cho Ta huống
chi là giữ giùm cho ngươi". La Vân bạch Phật rằng: "Luống
nhọc theo pháp đã không đắc đạo, vậy công nghe pháp nào có ích
cho cho người". Phật lại bảo La Vân: "Công trình nghe
pháp dù đời nay tuy không đắc đạo, nhưng đời sau thọ thân
trong ngũ đạo được nhiều lợi ích. Như Ta trước đã nói Bát
Nhã trí tuệ cũng kêu là cam lộ, cũng kêu là vị lương y,
cũng kêu là cầu cống, cũng kêu là chiếc thuyền to, người đã nghe chưa?".
La Vân bạch Phật:"Thưa Đức Thế
tôn! Con đã được nghe".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc quỳ
gối chắp tay bạch Thế Tôn rằng: "Như Phật vừa
nói Bát Nhã trí tuệ kể có bốn tên, nhưng chưa biết nghĩa đó ra
làm sao, mong Phật thương xót vì con giảng dạy". Phật bảo vua
rằng: "Người muốn đặng nghe thì phải để tâm nghe kỹ, Ta nay nói
đây". Phật nói: "Ta nhớ nghĩ đời quá khứ từ vô số kiếp,
ở nước Tỳ Ma Đại, trong núi Tỷ Đà có một con Giả Can bị một
con sư tử vương rượt bắt muốn ăn thịt, Giả Can sợ
hãi giông nhảy rớt xuống một cái giếng không có thể lên được, ở đấy ba
ngày tâm tưởng chắc chết. Mà nói bài tụng như vầy:
Thảm kịch! Ngày nay khổ đến cùng!
Chắc là mất mạng ở nơi giếng!
Tất cả vạn vật đều vô thường,
Tiếc thay chẳng hiến
thân sư tử!
Than ôi! Thân tội ách nạn gì,
Tham tiếc thân mạng chết không
công,
Không công mà chết đã đáng giận.
Lại để thân thối nhơ giếng người.
Nam mô sám hối mười
phương Phật,
Chứng biết lòng con sạch mãi rồi.
Đời trước đã làm ba nghiệp tội,
Nguyện đem thân này đền trả xong.
Các tội hết rồi ba nghiệp sạch,
Tâm cần bất động niệm chơn thật,
Từ đây kiếp kiếp gặp Minh sư,
Như Pháp tu
hành mau thành Phật.
Khi Trời Đế Thích nghe tên Phật,
Bừng dậy dửng tóc nhớ Phật xưa.
Nghĩ mình cô lộ không Thầy dạy,
Say mê ngũ dục tự đắm chìm.
Không thể vượt qua khỏi ngục ái
ân.
Càng suy càng thảm ứa nước mắt,
Liền cùng chư Thiên tám vạn
chúng.
Bay xuống bờ giếng muốn hỏi gạn.
Mới thấy Giả Can nơi đáy giếng,
Hai tay bấu đất không lên được,
Thiên Đế lại tự nghĩ thầm rằng:
Thánh Nhân ứng hiện nhiều phương
pháp,
Ta nay tuy thấy hình Giả Can,
Ấy là Bồ Tát chẳng phải phàm.
Nay xin hỏi rõ chỗ nghi ta,
Và khiến chư Thiên được nghe
pháp.
Không nghe Thánh giáo đã hèn
lâu,
Ở chỗ mịt mù không Thầy dạy,
Những lời nhơn giả chẳng phải phàm.
Xin vì chư Thiên nói pháp
giáo.
Khi ấy Giả Can ngước đáp rằng:
Ngài là Thiên đế không ai dạy,
Thật rất si ngạo không biết thời,
Pháp sư ở dưới mình ở trên,
Đã không cung kính lại hỏi
Pháp,
Pháp như nước mát cứu được người.
Thế nào muốn được lòng ngạo mạn.
Thiên Đế nghe rồi rất hổ thẹn,
Chư Thiên đứng hầu bật buồn cười.
Thiên Vương chìu lòng thật
không ích,
Còn bị hổ thẹn rất đáng
thương,
Đế Thích tức thời bảo chư
Thiên,
Dè dặt chớ cho là quái lạ,
Ta đây ngu tệ hạnh chẳng xứng.
Vì thế quyết phải nghe Pháp yếu,
Liền vì xủ xuống áo Thiên y,
Bọc lấy Giả Can lên khỏi giếng.
Vòng tay từ tạ lời vô lễ.
Cúi đầu sám hối xin tha tội.
Chư Thiên thiệt đúng như Thầy dạy,
Triền miên ngũ dục rất hoang
mê,
Đều bởi không gặp Thầy hay giỏi,
Giảng nói khổ, vui, thường, vô thường.
Chư Thiên dâng cúng cam lồ thực,
Giả Can đặng ăn hy vọng sống.
Không ngờ trong họa lại gặp phước,
Tâm tình khấp khởi mừng xiết bao.
Khi ấy, Giả Can tự nghĩ rằng:
"Trong đường súc sanh, sự xấu xa thô tệ nhất là Giả Can,
nhưng nhờ cái sức trí tuệ nên được như vầy. Lại tự nghĩ thân
mình thô xấu thật chẳng đáng yêu, sở dĩ vui mừng và vui mừng hơn
nữa là được hoằng Pháp. Chư Thiên si mê đây đều nhờ Đế
Thích trước có chút phần Bát Nhã, nên được chung cùng đồng đến nghe
Pháp. Rồi tự khen rằng: "Lạ thay! Lạ thay! Có cái may nào bằng cái may
ngày nay được thuyết pháp, để thành công đức cho Ta". Lại
nghĩ rằng: "Cám ơn ngày hôm nay đây không nhờ công sức công đức trí
huệ phương tiện của Hòa thương tiên sư Ta từ mẫn dạy bảo hay
sao?".
Cung kỉnh Thầy ta! Cung kỉnh thầy ta!
Nam mô Bát Nhã! Nam
mô Bát Nhã!
Tuy con làm tội sanh trong ác thú,
nhưng con vẫn nhớ đời trước và biết được nghiệp duyên là nhờ sức Bát
Nhã cảm hóa chư Thiên giáng thần đến đây cúng dường tiếp
tế và được hoằng pháp thỏa chút lòng con".
Khi đó, Trời Đế Thích bảo chư
Thiên rằng: "Như lời Thầy nói định muốn thuyết pháp. Chúng
ta từ nay được nhiều thiện lợi. Vậy thì ai cũng phải cúi đầu thành
thật xin Thầy thuyết pháp". Đế Thích nói xong rồi chư
Thiên đều vâng mạng. Tức thời mỗi người sửa sang cung
kính cẩn trịch vai áo bên hữu đồng thời bao chung quanh Giả Can,
quỳ xuống chắp tay, mỗi người đồng tiếng mà nói bài tụng rằng:
Hay thay! Hay thay!
Hòa thượng Giả Can
Xin Ngài nói Pháp,
Khai hóa cõi Thiên!
Cõi Thiên mờ mịt,
Mê đắm ngũ dục.
Hằng sợ phước hết
Vô thường kéo lôi!
Chết đọa ác đạo
Khó cứu ra khỏi,
Đã lâu đời lắm,
Mấy muôn ức năm,
Nay mới gặp một,
Ruộng phước tốt lành
Xin Thầy thương xót,
Nói Pháp cho nghe,
Thiên nhơn đặng phước
Chúng sanh cũng được
Nguyện cùng Hòa thượng,
Vĩnh kiếp theo nhau,
Đến khi thành Phật,
Thường kết nhân duyên.
Minh sư khó gặp,
Nên phải thề nguyền.
Khi bấy giờ, Giả Can thấy các người Trời ân
cần khuyến thỉnh và ưa muốn nghe pháp thì lòng vui mừng bội
phần. Liền bảo Thiên đế rằng: "Ta nhớ nghĩ thuở xưa Ta từng thấy
người đời, những người muốn nghe pháp, thì trước phải sửa sang một cái tòa
cao, trang sức thanh tịnh, mới thỉnh Pháp sư lên ngồi thuyết
Pháp. Vì sao? - Bởi Kinh Pháp là quý trọng, kỉnh đó thời được
phước, chớ nên đem cái tâm khinh, mà bị tổn phước". Chư
Thiên nghe rồi ai nấy nói rằng: "Xin vâng". Liền cởi
áo Thiên bảo chồng lại thành một cái tòa cao, chỉ trong giây phút đã được trang
sức tôn nghiêm thanh tịnh bậc nhất.
Khi đó, Giả Can lên tòa, bảo Thiên đế rằng: "Ta nay nói Pháp chính là vì hai sự nhân duyên rất lớn: Thế nào gọi là hai:
1.- Là vì thuyết pháp khai hóa cõi Thiên thì được phước không lường.
2.- Là vì cái ơn thí cho ăn không nói sao được".
Thiên đế thưa rằng: "Cứu khỏi nạn chết dưới
giếng được toàn thân mạng thì cái công ơn rất lớn. Thế
nào Tôn giả lại nói cái ơn đó không bằng cái ơn thuyết
pháp. Sở dĩ vì sao?" Hòa thượng phải biết rằng:
"Tất cả trong thiên hạ ai cũng ưa sống cầu an, không ai muốn
chết cả. Do vì nhân duyên ấy nên cái công ơn cứu toàn
thân mạng há đặng không lớn hay sao?".
Giả Can đáp rằng: "Cái sự thích
hợp sống chết phải chăng của mỗi người đều có khác. Hoặc có người
tham sống, hoặc có người ưa chết. Kẻ nào tham sống, là kẻ sống trong đời ngu
si mờ ám chẳng biết chết rồi lại có sanh ra đời sau, trái Phật xa
Pháp, không gặp Minh sư, làm việc sát, đạo, dâm, dối, chỉ gặp ác là theo, những
người như thế là người tham sống sợ chết. Trái lại, người nào ưa chết,
muốn gặp Minh sư, phụng sự ngôi Tam Bảo, cải dữ làm
lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Thầy Tổ, hòa thuận vợ
con, tôi tớ quyến thuộc đều được khiêm nhường cung kỉnh mọi người,
những người như vậy là người ghét sống ưa chết. Sở dĩ vì sao? Vì người
lành chết đi, nhờ phước được sanh lên cõi trời hưởng năm điều dục
lạc. Còn người dữ chết đi sẽ vào địa ngục chịu khổ
không cùng. Người lành ưa chết, như tù ra khỏi ngục, người dữ sợ chết,
như tù vào trong ngục".
Thiên Đế hỏi rằng: "Như lời thầy dạy té ra cứu toàn mạng sống không có công phu gì rồi, đúng thật như lời thầy nói thì còn có hai việc:
1.- Là thí cho ăn,
2.- Là thí Pháp, đều có
cái công đức gì, cúi xin thầy giảng dạy, khai hóa kẻ mờ ám
này được rõ?".
Giả Can đáp rằng: "Bố thí về việc ăn
uống chỉ giúp mạng sống trong một ngày, còn bố thí của
quý thì giúp sự thiếu thốn trong một đời, nhưng đó cũng là
một sự nhân duyên ràng buộc thêm lớn đường sanh tử mà
thôi, còn về sự thuyết pháp giáo hóa gọi là Pháp
thí có thể khiến cho chúng sanh được đạo xuất thế gian. Mà
đạo xuất thế gian ấy kể có ba món: Một là La Hán, Hai
là Bích Chi Phật. Ba là Phật Đạo. Những người trong bậc Tam Thừa ấy
đều nhờ nghe Pháp rồi y theo Pháp tu hành mới chứng
được. Lại những chúng sanh khỏi cái khổ trong ba đường ác đạo,
được hưởng cái phước vui ở cõi trời là đều nhờ nghe
Pháp. Thế cho nên Phật nói đem Pháp bố thí thì được công
đức vô lượng".
Thiên đế thưa rằng: "Nay thân
thầy đây, thật là thân nghiệp báo hay là thân Ứng Hóa vậy?".
Giả Can đáp rằng: "Thật là
cái thân nghiệp báo chớ chẳng phải là thân Ứng Hóa".
Người trời nghe rồi bừng dậy kinh
hãi, buồn thảm thương tâm, nhỏ đôi hàng giọt lệ, liền đứng dậy cung
kỉnh bạch Giả Can rằng: "Lòng con tưởng thầy là Bồ Tát Thánh
nhân ứng hiện cứu đời mà nay vừa nghe Thầy nói là tội nghiệp quả
báo. Chúng con chưa rõ cái duyên cớ gì? Cúi xin thầy thương
xót nói rõ nhân duyên ấy?".
Giả Can đáp rằng: "Ngài muốn nghe
cũng được, ta nay nói đây. Ta trước hồi đời thượng cổ, ta sanh trong nước Ba
La Nại, tại thành Ba Đầu Ma, làm con nhà nghèo tên là A Dật
Đa cũng thuộc về dòng Sát đế lợi, tuy tuổi còn nhỏ mà thông
minh ham mộ sự học hành đến khi mười hai tuổi đi
theo Minh sư vào ở trong chốn thâm sơn nhọc nhằn hầu hạ, nghiên cứu tập
học siêng năng không biếng lười, thầy cũng ngày đêm tha thiết dạy bảo,
không mất thời giờ, trải qua năm mươi năm học được chín mươi sáu
món Kinh, Thơ, Ký, Luận, Phương y, Chú thuật và xem tướng biết
hung, tai, dị, họa, phước không có món nào mà không biết, trí đức tài
cao danh vọng bốn bể.
Khi bấy giờ, A Dật Đa tự nghĩ
rằng: Cái sự cứu giúp ngày nay đâu không nhờ cái công ơn giáo
hóa của Hòa thượng Tôn Sư ta, cái công ấy khó trả. Song mà
nhà ta nghèo hèn không có gì để cúng dường, chỉ còn một lẽ là bán thân để
đền đáp ơn thầy, nghĩ như thế rồi liền quỳ xuống thưa với thầy rằng: "Đệ tử
con nay muốn tự bán thân đền trả ơn Thầy".
Thầy lại bảo rằng: "Này con! Kẻ đạo
sĩ này ở trong núi vẫn đi khất thực tự nuôi sống không
có việc chi thiếu thốn, nhưng con nay vì sao lại hủy báng cái thân quý
mà cúng dường cho ta vậy. Thôi con nay đã được thành tựu trí
tuệ biện tài thì nên đi giáo hóa thiên hạ nhân dân, vì pháp
làm ngọn đèn sáng, thì cái công giáo hóa ấy há chẳng đủ trả
ơn cho ta hay sao! May lắm! Thôi đừng làm những chuyện như vậy".
Khi đó, A Dật Đa là người trí nên không
trái lời Thầy, bèn ở lại trong nước đi khất thực tự nuôi sống. Như vậy
không bao lâu vị Quốc vương trong nước thăng hà. Các quan quần
thần nhóm họp lại luận bàn, ra lệnh trong nước các chư học sĩ đều
mời nhóm hết bảo cùng nhau thi luận, nếu ai được nhiều hơn hết sẽ được làm vua.
Khi ấy, A Dật Đa cũng được mời
đến nhóm cùng với chư học sĩ có hơn năm trăm người, suốt trong bảy
ngày cùng nhau thi luận. Nhưng không có ai hơn được A Dật Đa. Quần thần rất vui
mừng liền mời các thầy Bà-la-môn lại, tôn A Dật Đa lên nối ngôi
vị Quốc vương.
Khi A Dật Đa thấy sự như vậy rồi,
vừa lo vừa mừng mà tự nghĩ thầm rằng: "Nếu ta làm vua thì sợ e
có cái tâm kiêu mạn khoái ý tham cầu làm cho nhân dân bị khổ,
đến khi chết sẽ đọa vào trong địa ngục, vì làm vua là một nhân
duyên chịu khổ, còn nếu không làm vua thì nhà nghèo không có
cái của cải lấy gì cúng dường báo đáp ơn nặng cho thầy,
nghĩ đi nghĩ lại đành phải nhận ngôi vua để trả
ơn cùng nuôi dưỡng song thân. Nghĩ như vậy rồi đành nhận ngôi
vua.
Khi lên ngôi vua rồi liền sai
quan trung thần sửa soạn xe báu, tràng phan bảo cái, hương hoa kỹ
nhạc đủ trăm món đồ ăn uống vào trong núi rước thầy về nước cúng
dường riêng lập cung điện toàn bằng thất bảo, sơn phết chạm trổ đủ mọi
vẻ đẹp, nào là giường chõng mền nệm, đồ ăn uống thuốc thang, vườn
hoa, rừng quả, suối chảy ao tắm trang hoàng rực rỡ để cúng
dường thầy. Vua A Dật Đa cùng với quan dân trong nước Phu
nhân thể nữ. Ngày ngày theo thầy thọ giáo pháp Thập thiện suốt
trong một trăm năm.
Khi ấy, cõi ngoài có hai nước nhỏ, hai
ông vua nhỏ kia cùng nhau ganh ghét riêng lập binh mã đánh giết lẫn
nhau, trải qua đã nhiều năm mà đàng nào cũng không hơn đàng nào. Một
nước nhỏ kia tên là An Na La, một nước nữa tên là Ma La Bà Da.
Lúc đó vua An Na La mời các quần thần nhóm lại cùng nhau đề nghị rằng:
"Chúng ta phải lấy phương pháp gì để đánh hơn được nước
kia". Các quần thần đáp rằng: "Vua A Dật Đa là người sanh sản
nơi nhà hàn tiện, tuy là địa vị ngôi vua, nhưng cái tánh hàn tiện vẫn
còn, và từ xưa đến nay vâng giữ theo mười điều lành không
phạm tà dâm tuy có cung nữ nhưng mà tuổi
già hết rồi. Như theo kế của tiểu thần thì nên tìm xem trong nước, không
luận nhà nghèo hay giàu, miễn gái cho có tiếng, đủ một trăm người tuổi trẻ sắc
đẹp, hễ vừa ngó thấy là vừa thích ý, ăn mặc trang điểm
phấn son thơm sạch. Rồi sai quan trung thần chở chuyên của báu và các
thể nữ ấy đem sang cống hiến. Nếu ngài thâu nhận thì xin ngài giúp cho
trăm vạn hùng binh đem qua đánh thì không đâu là không thắng". Ai nấy liền y
theo kế đó: Gái đẹp, của báu trong một giờ tìm đủ, vua sai trung
thần đem sang cống hiến.
Khi bấy giờ, vua A Dật Đa được
các mỹ nữ và của báu thì chi xiết vui mừng mới hỏi vị sứ thần
rằng: "Vua ngươi cống hiến cho ta những vật quý như thế này mà
muốn cho ta đáp lại những gì không?" Sứ thần tâu rằng: "Vì
nước Ma La Bà là một nước dưới quyền thống trị của Đại
vương, vua kia ngu mê không biết giáo hóa nhân dân, dâm loạn vô
đạo không lo việc quốc chánh, nhân dân bị đồ thán xem
như kẻ thù. Dám xin Đại vương giúp cho trăm vạn hùng binh đem
qua đánh nước ấy. Nên hôm nay tôi thành tâm cống hiến chính là
vì lẽ đây". Vua nói rằng: Hay lắm! Rồi liền sai quan lệnh giản kiểm đủ
trăm vạn hùng binh đem giao phó cho đó và vua An Na La cũng
tự chọn lựa trong nước được trăm vạn binh nhân đồng thời giúp nhau,
thổi hiệu ra lệnh suốt trong trăm ngày đấu chiến sát hại người chết
hơn nửa, mới thắng được nước kia. Bấy giờ, vua Ma La Bà đều bị xử trảm
và cả họ hàng có hơn ngàn vạn người trong một thời đều chết sạch.
Bấy giờ, nhắc lại vua A Dật
Đa khi được các gái đẹp thì tình ý mê hoặc quên mất bổn
tâm, lung dâm chơi đùa không lo việc quốc chánh; để cho quan quần liêu cùng
nhau làm loạn; bắt con gái của lương dân về làm nô lệ. Gió mưa
không đúng thời tiết, nhân dân chết đói đầy đường. Nên bị kẻ
địch nước ngoài bèn đến xâm lấn. Vua A Dật Đa từ đây mất nước rồi
cũng bị diệt vong.
Sau khi chết rồi sanh trong đường địa
ngục thân chịu khổ sở, nhưng vì nhờ đời trước có sứ học vấn trí tuệ,
nên nhớ được túc mạng tâm tự hối quá bỏ dữ làm lành; chỉ
trong giây lát hết đời địa ngục sanh làm ngạ quỷ, mà còn nhớ được
mạng đời trước, liền lại ăn năn tội lỗi, chuyên
tu pháp Thập thiện; trong giây lát lại hết đời ngạ quỷ sanh
trong loài súc sanh, chịu cái thân Giả Can, song vì nhờ cái sức trí
tuệ nên lại còn biết được túc mạng; bỏ những việc ác đã qua sửa
làm việc lành sắp đến, vâng giữ pháp Thập thiện, lại
đi giáo hóa tất cả chúng sanh khiến dạy bảo làm mười
điều lành. Nhưng nay rủi gặp sư tử rượt bắt trong khi sợ
hãi nhảy nhào xuống giếng, trong tâm tưởng là chết rồi sẽ được
sanh về cỏi trời hết khổ được vui, nhưng mà do ngươi cứu ta làm trái bổn nguyện
của ta nên mới trải qua những nỗi khổ, biết đời nào khỏi được. Thế
cho nên ta nói ngươi cứu mạng ta là không có công
phu vậy.
Thiên Đế nạn rằng:"Như theo lời
thầy nói thì người lành cầu chết. Việc ấy không phải vậy. Là vì sao? Vì thầy ở
dưới giếng nếu không nắm vào áo thì không đặng lên, nếu
không đặng lên thì thân không đặng sống. Nay xét cái nguyên
do được sống là nhờ thầy nắm vào áo. Thế cho nên phải biết rằng:
"Chẳng phải là thầy không muốn sống lẽ nào thầy lại nói rằng thầy không
tham sống ư?".
Giả Can đáp rằng: "Ý ta nay sở dĩ nắm vào áo là chính vì ba sự nhân duyên rất lớn. Sao gọi là ba?
Một là nắm vào áo vì không trái cái bổn nguyện của Thiên đế. Vả lại làm trái ý không mãn chỗ sở nguyện của người, thì mắc cái khổ rất lớn, làm cho người khổ não thì đời đời sanh ra chỗ nào, chí nguyện cũng không loại, cầu chi cũng không dặng, tìm nơi nào cũng không gặp, khổ não đến thân. Ta vì cái lẽ ấy chớ chẳng phải là vì sự sống vậy.
Hai là nắm vào áo, là thấy ý chư Thiên muốn đặng nghe
Pháp; nên ta muốn vì chư Thiên tuyên truyền Chánh pháp bởi
ta không lẫn pháp vậy. Ví như ta không nói thì thành ra lẫn pháp, mà
cái tội lẫn pháp đời đời sanh đui, điếc, câm, ngọng, các căn bế tắc, sanh
ở chốn biên địa, ngu si vô trí. Dù sanh ở chỗ tốt mà tâm
tánh ám độn sở học không thành tựu nên khổ não đến
thân. Ta nay vì cái lẽ ấy chớ chẳng phải vì sự sống vậy. Thí như người đời,
nhân đời trước của họ làm việc bố thí tu thiện phước đức nhân
duyên, nên đời nay sanh ra làm người, chỗ sở nguyện tùng
tâm giàu có của cải, mà kẻ nghèo đi đến xin lại keo tâm lẫn tiếc
không chịu thí cho, cái quả báo của sự xan tham sẽ sanh
trong đường ngạ quỷ thường bị nạn đói khát, áo chẳng đủ che
thân, mùa đông lạnh rét thân thể nứt nẻ, mùa nắng thì nóng
dữ, không có bóng che, khổ não như thế đến mấy nghìn vạn kiếp. Tội ngạ
quỷ hết rồi sanh trong loài súc sanh ăn cỏ uống nước, ngu dại không
biết chi, hoặc ăn bùn đất, uống nước bất tịnh, đó là vì mắc cái tội xan
tham, cho nên phải chịu cái quả báo như vậy. Mà cái tội lẫn Pháp cũng
như thế.
Ba là nắm vào áo, là chính vì muốn
tuyên truyền Pháp hóa cùng khắp vậy thôi. Đó là vì muốn khai ngộ lợi
ích cho người trời".
Thiên đế lại hỏi rằng: "Gọi
là Pháp thí được công đức không lường". Việc ấy ra làm
sao? Cúi xin thầy nói cho. Giả Can đáp rằng: "Tuyên truyền Chánh
pháp hay khiến cho chúng sanh được biết có chết đây thì có sanh
kia, làm lành thì được phước, làm ác phải chịu họa, tu đạo đắc đạo;
nhờ công đức ấy, đời sau sanh ra được trí tuệ sáng suốt thường
biết túc mạng: hoặc sanh lên cõi trời thì làm thầy của chư
Thiên, nếu sanh trong thế gian, thì làm vua Kim Luân thường đem
pháp Thập Thiện giáo hóa trong thiên hạ; hoặc làm vị nhân
vương, lấy Chánh pháp trị nước, thường biết túc mạng, vì biết túc
mạng, nên tâm không buông lung.
Pháp người ở địa vị cao sang,
hưởng thú vui của ngũ dục phần nhiều có ma sự đến phá
hoại, cám dỗ khiến cho người cảm tình tạo ra nghiệp
ác, tuy còn làm những việc tội lỗi chịu cái quả báo ác,
nhưng nhờ cái sức trí tuệ, chóng được khỏi khổ, sanh lên cõi trời, hưởng
phúc vui; trí tuệ sáng suốt, dần dần tăng trưởng thành hạnh Bồ
Tát; đến nhẫn vô sanh. Thế cho nên Phật nói rằng: "Cái
công giáo hóa được phước không lường".
Thiên đế vui mừng thưa rằng:
"Hay thay! Hay thay! Đúng thật như lời thầy nói thì con và chư Thiên,
ngày nay mới biết tài thí và Pháp thí cái công đức nhân
duyên tướng có sai khác. Những người làm việc tài thí ví
như một ngọn đèn soi sáng trong một nhà nhỏ. Còn việc
làm Pháp thí ví cũng như ánh sáng của mặt nhật soi trong bốn
châu thiên hạ, ánh sáng đến đâu thì sự mờ ám tiêu hết. Sở dĩ vì
sao? Vì cái thể của mặt nhật, tánh nó tự sáng cho nên hay chiếu vật. Hòa
thượng nay cũng lại như vậy. Vì cái bản thể tu tập nên được sáng
suốt, lại đem trí tuệ sáng suốt đó trừ cái mờ tối cho chúng
sanh".
Đương khi Thiên đế nói lời ấy rồi, thì tám vạn chư Thiên cả thảy đều đứng dậy sửa sang y phục, cung kỉnh quỳ gối chắp tay bạch với Giả Can rằng: "Xin thầy thương xót trao cho chúng con pháp Thập thiện được nhiều lợi ích cho tất cả chúng sanh được lợi ích và cũng khiến cho Hòa thượng thêm nhiều công đức". Giả Can đáp rằng: "Hay thay! Thật ngươi rất biết thời". Liền bảo Thiên đế rằng: "Cái pháp thọ giới thì trước hết phải sám hối cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh.
Thế nào gọi là Thân nghiệp?
Nghĩa là sát, đạo, dâm.
Thế nào gọi là Khẩu nghiệp?
Là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu.
Thế nào là Ý nghiệp?
Là tật đố, sân nhuế và tà kiến.
Ấy là mười việc cấm ngăn thân, khẩu, ý ba nghiệp đừng cho phạm các việc ác đó gọi là Thập thiện.
Bấy giờ, phải nhất tâm thành thật sám hối chừa
bỏ mười điều ác, vì mười điều ác tiêu hết, thì thân, khẩu, ý được thanh
tịnh, vì ba nghiệp được thanh tịnh cho nên, gọi là Thập thiện".
Thiên đế lại hỏi Hòa thượng Giả
Can rằng: "Cái công đức Thập thiện quả báo ra làm
sao?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe Thầy ta nói, người tu
pháp Thập thiện, mà cái quả báo của pháp Thập thiện, sẽ
sanh lên cõi trời Lục Dục, cung điện toàn thất bảo, ngũ dục sẵn
sàng, đủ trăm món đồ ăn, và mạng sống lâu không lường; cha mẹ, vợ
con, dùng lục thân quyến thuộc, xinh đẹp, sạch sẽ, hoan hỷ,
khoái lạc.
Giả sử như chư Thiên tu
pháp Thập thiện thọ phước, cõi trời hết nhưng cũng trở
lại sanh trong cõi trời được phước báu gấp bội, chớ chẳng phải
như cái quả báo Thập thiện của người đời tu đâu. Vì sao? Bởi vì
người đời tu pháp Thập thiện là ba giới của tâm thật khó giữ
gìn.
Một là giới bất sân. Trước phải phương
tiện thực hành tâm từ, rồi sau mới có thể thành được giới bất sân. Mà
người đời thực hành cái tâm từ, rất khó giữ được lâu. Ví
như rạch nước, vừa rạch thì vừa hiệp, giữ giới bất sân cũng lại
như thế.
Hai là giới tật đố. Giới tật đố phát ra
có lúc. Thế nào là phát ra có lúc. Nghĩa là thấy người kia được lợi, thấy người
kia khoái lạc, thấy người kia kia đoan chánh, thấy người kia mạnh mẽ, thấy người
kia thông minh, thấy người kia tu phước. Nói tóm lại là thấy
tất cả việc người hơn mình thì khi ấy cái tâm thấy hơn mình mới sanh ra tật đố. Thế
cho nên phải biết rằng: Cái tâm tật đố phát ra có lúc.
Ba là cái tâm kiêu mạn. Mà cái
tâm kiêu mạn kia phát ra cũng có lúc. Nghĩa là: Thấy người ngu
si, thì cái tâm khởi ra sự kiêu mạn, và lại thấy người xấu xa, thấy
người nhơ bẩn, thấy người nghèo khổ, nói tóm lại là thấy người
đui, điếc, què, lết các căn không đủ, mường mán, mọi rợ, thì lúc ấy cái
tâm kiêu mạn mới phát khởi ra trong khi thấy. Thế cho
nên phải biết rằng: Giới bất kiêu mạn phát ra có lúc.
Bởi vậy, nên người đời giữ giới tâm
rất khó. Dù cho gắng giữ, nhưng thoạt được thoạt không. Thế nên cái quả
báo pháp Thập thiện của người đời tu, dù cho hưởng cái phước ở cõi
trời, nhưng cũng không bằng cái công đức pháp Thập thiện của
người trời tu, quang minh thần lực, những món ăn, uống, tướng hảo vòi
vọi thứ nhất; biết túc mạng của mình cũng lại như vậy. Bởi thế
nên biết rằng: "Người trời tu pháp Thập thiện thì
cái quả báo hơn người đời tu".
Thiên đế bạch rằng: "Như lời của
thầy nói người tu pháp Thập thiện ba giới của tâm thật là khó giữ,
người trời cũng vậy những tánh tật đố, sân nhuế, kiêu mạn, tà kiến các
tâm như thế chưa từng không có, thì làm sao cái phước báu hơn người đời được
ư?".
Giả Can đáp rằng: "Người trời tuy
có, nhưng mà không phải như người đời. Sở dĩ vì sao? Vì người trời phước
đức khổ ít, vui nhiều, tâm phiền não cũng nhẹ, còn người đời phước
mỏng, vui ít, khổ nhiều cho nên tâm phiền não rất nặng". Thiên
đế thưa rằng: "các người trời từ xưa đến nay ưa vui, tâm
như con lộc, lại ví cũng như con viên hầu. Đời nay tu pháp Thập thiện, đời
sau khỏi có tánh ngu si và hay quên. Nhưng mà trong khi phạm
giới phải làm sao vậy ngài?". Giả Can đáp rằng : "Ta từng nghe
thày ta nói người tu pháp Thập thiện nếu rủi có phạm những nghiệp
ác thì phải đến vị Hiền minh phước đức tùy theo chỗ phạm của
mình mà phát lồ sám hối rồi xin thọ lại, làm người được
như vậy thì không mất giới. Sở dĩ vì sao? Vì giới Thập
thiện đây ví như lúa mạ, còn phiền não như cỏ, cỏ cùng
với lúa lấn hại lẫn nhau. Bây giờ nếu muốn lúa tốt thì phải nhổ sạch cỏ chỉ còn
một thứ lúa, thì thâu hột được nhiều, vì lúa được nhiều thì không bao giờ bị
nạn đói khát".
Khi bấy giờ, Thiên đế và tám vạn chư
Thiên nghe những lời ấy rồi thật vui mừng không còn lo buồn vô
thường phước hết, chịu cái quả báo trong ác thú. Lại tự
nghĩ rằng: Cái công đức Thập thiện, tuy khỏi cái quả báo khổ,
song còn phải có sanh tử chẳng khỏi vô thường. Kìa như có vị Thiên
vương ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại thấy người tu phước ôm
lòng tật đố, làm cho người mắc nạn quên mất đường lành, khiến tạo những nghiệp
ác; nhân duyên nghiệp báo nên phải chịu cái quả khổ". Liền
bạch với Giả Can rằng: "Thưa Tôn sư, tu các công đức gì mà
thường bất tử và khỏi bị Ma vương nó cám dỗ vậy?".
Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe thầy
ta nói: Người mà phát tâm Bồ đề, tu nghiệp Bồ Tát thì dù
cho Ma vương Ba Tuần cũng không có thể phá hại vì tâm
không mê hoặc, đời đời sanh ra được trí huệ sáng suốt,
vì được trí huệ sáng suốt cho nên thường nhớ được túc mạng,
vì nhớ được túc mạng nên không tạo ra những nghiệp ác, vì không
tạo ra những nghiệp ác cho nên tâm được thanh tịnh, vì tâm được thanh
tịnh nên đặng Pháp nhẫn Vô sanh, vì được Pháp nhẫn Vô
sanh cho nên đối với Đạo không lui sụt xa lìa đường sanh tử và
sự ưu hoạn khổ não".
Thiên Đế bạch rằng: "Tu đạo Bồ
Tát thì nên hành pháp nào?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng
nghe thầy ta nói người muốn cầu Phật đạo thì từ nơi tâm mà phát ra,
trước phải học rộng các Pháp nhân duyên, rõ được nhân
duyên, thì tín tâm mới bền vững. Vì tín tâm được bền
vững nên mới có thể phát ra được cái tâm tinh tấn, vì có cái sức tinh
tấn nên khỏi tạo ra tất cả nhân duyên nghiệp ác, vì tâm được thuần
thiện nên không buông lung, vì không buông lung nên trí huệ được thành
tựu; vì cái sức trí huệ được thành tựu nên thâu nhiếp được
tất cả ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ đề".
Thiên đế thưa rằng: "Như lời
Thầy dạy thì ba mươi bảy phẩm nghĩa ấy rộng sâu, nếu chẳng phải là
cái tâm như con lộc thì không có thể rõ được. Vậy làm sao vào đặng đạo hạnh Bồ
Tát ư?". Giả Can đáp rằng: "Ta từng nghe thầy ta nói người tu
đạo Bồ Tát trước phải dùng phương tiện điều phục các
căn. Sao gọi là phương tiện? Nghĩa là: sáu pháp Ba La Mật và
pháp Tứ Vô Lượng Tâm, gọi là phương tiện diều phục các
căn".
Thiên Đế bạch rằng: "Thưa
ngài! Sáu pháp Ba La Mật cái nghĩa kia ra làm sao! Cúi xin ngài nói
cho". Giả Can đáp rằng: "Thứ nhất là Bố thí. Vì bố
thí nên phá được cái tâm xan tham không còn tiếc nuối. Thứ hai là trì
giới, nghĩa là: Giữ các điều lành, không làm những việc ác. Thứ ba là Nhẫn
nhục, nghĩa là: Gặp những việc ác mà tâm có thể nhẫn được, không ôm
lòng báo thù. Thứ tư là Tinh tấn, nghĩa là: Tinh tấn hay tu
hành đạo nghiệp không biếng lười. Thứ năm là Thiền định, nghĩa
là: Hay thâu nhiếp tâm thần không có niệm tà. Thứ sáu là Trí huệ,
nghĩa là: Tu tập trí huệ để chiếu phá vô minh phiền
não tối tăm. Ấy gọi là sáu pháp Ba La Mật dùng sức phương
tiện điều phục các căn. Thế nào là bốn? - Một là Từ tâm. Hai là Bi
tâm. Ba là Hỷ tâm. Bốn là Xả tâm. Đó gọi là bốn việc, cũng gọi là Tứ
Vô Lượng Tâm".
Thiên Đế lại hỏi rằng: "Sao gọi
là Từ Tâm?". Giả Can đáp: "Thấy người khổ ách, phải dấy tâm
từ đứng ra cứu hộ, đều khiến cho họ được yên ổn".
Thế nào là Bi tâm? Nghĩa là: Thấy tất cả chúng
sanh bị ái vô minh nên tạo nghiệp sanh tử chịu cái khổ
trong năm đường không có thể ra khỏi, thế nên chúng ta nay chớ nên biếng
lười, phải thường siêng năng tinh tấn tu tập trí huệ chóng thành
Phật đạo, khi đặng thành Phật đạo ròi thì đem trí huệ sáng
suốt chiếu phá vô minh hắc ám cho chúng sanh khiến
thấy sáng suốt, khỏi cái khổ ràng buộc. Dù chưa thành Phật nhưng
ra làm tất cả nghiệp lành đều hồi hướng cho chúng
sanh. Khiến cho chúng sanh được yên vui. Chúng sanh có tội
thì ta phải chịu thay thế. Đó gọi là "Bi tâm".
Thế nào là Hỷ tâm? Như thấy người đời tu
hành Thiện nghiệp, cầu quả Tam thừa khuyến khích giúp đỡ tùy
hỷ, thấy người hưởng vui, tâm mình cũng tùy hỷ, thấy người đoan chánh, thấy
người mạnh khỏe, thấy người giàu sang, thấy người trí huệ, thấy
người từ tâm, thấy người hiếu thuận. Nói tóm lại, là thấy tất cả
người làm việc phải rồi khuyên lơn tùy hỷ, đó gọi là "Hỷ
tâm".
Sao gọi là Xả tâm? Phàm ra làm tất cả công
đức, làm ân huệ cho người mà không trông cầu công đức,
làm ân huệ cho người mà không trông cầu quả báo đời
sau và đời sau nữa, đó gọi là "Xả tâm", thành tựu được
bốn việc nên gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Bởi chúng sanh vô lượng,
nên Bi tâm cũng vô lượng. Bởi chúng sanh vô lượng, nên
Hỷ tâm cũng vô lượng. Bởi chúng sanh vô lượng, nên Xả
tâm cũng vô lượng. Thế nên gọi là Tứ Vô Lượng Tâm luôn với
sáu pháp độ trước, cộng gọi mười pháp Ba La Mật. Mười pháp
Ba La Mật tóm thâu tất cả đạo hạnh Bồ đề".
Khi đó trời Đế Thích nghe Giả
Can nói nhân duyên công đức pháp tu Thập thiện và lại nghe nghĩa
thú nhân duyên của vị Bồ Tát tu đạo Bồ đề thì mới
hết chỗ nghi, vui mừng khấp khởi rúng động cả thân tâm; tức
thời cùng với tám vạn chư Thiên hầu hạ liền đứng dậy sửa
sang cung kỉnh chắp tay bạch với Giả Can rằng: "Thưa Tôn sư!
Ngày nay đệ tử và tám vạn chư Thiên nhất tâm đồng thời phát
tâm Bồ đề, vâng làm đủ đạo hạnh Bồ Tát như lời thầy dạy.
Cúi xin Hòa thượng tùy hỷ nói cho". Giả Can đáp rằng:
"Người thật đã biết thời như vậy là đúng với cái bổn tâm hy vọng của
ta".
Bấy giờ, Thiên đế bạch Giả Can
rằng: "Thưa Hòa thượng! Hòa thượng ăn uống pháp dùng thế
nào? Cúi xin dạy bảo đẻ cho chúng con sửa sang cúng dường". Giả
Can đáp rằng: Thức ăn của ta ngươi nghe không hợp. Vì sao? - Bởi tội
nghiệp nhân duyên cho nên những món ăn của ta rất là bất tịnh hình giống như súc sanh chẳng khác nào ngạ quỷ, tốt
hơn là đừng hỏi đến món ăn kia". Thiên đế bạch rằng:
"Thưa Hòa thượng! Hòa thượng ăn uống dù tốt cũng nên nói,
dù xấu cũng phải nói, để đệ tử con nay sẽ tùy theo chỗ thích
hợp sửa sang cúng dường".
Giả Can đáp rằng: "ta từng ăn những
phẩn của sư tử hổ lang, và ăn xương cốt, vải rách, thịt nát của người
chết trong gò mả, rủi gặp cơn đói khát mà không được, có những món ăn
như vậy, thì cũng ăn bùn đất; tội khổ quả báo suốt đời cho
đến khi chết. Tuy đồ ăn bất tịnh mà chưa từng no đủ".
Khi ấy, vị Thiên đế Thích cùng
cả chư Thiên nghe Giả Can nói thức ăn uống ấy, rồi buồn
thương cảm cách đau lòng rơi lệ, bạch với Giả Can rằng: "Đệ tử ý
muốn dọn mâm cỗ để sửa sang cúng dường. Nhưng theo lời thầy nói thì chỗ sở
nguyện không mãn, không biết làm sao được. Đệ tử con nay trở
về Thiên cung phải làm phương pháp gì để trả ơn nặng
cho thầy". Giả Can đáp rằng: "Như quý ngài đây, theo ta nghe
pháp, khi trở về cõi trời, lần lựa giáo hóa khai ngộ chư
Thiên chẳng luận nam nữ nhẫn đến một người khiến cho tín thọ vâng
làm, thì của những trả ơn cho ta mà thôi mà cũng là trả
ơn tất cả chư Phật. Tùy thuận giáo hóa mà tự thêm lớn phước
đức chư Thiên, huống chi là cái phước báu giáo hóa khai ngộ nhiều
người thì công báu vô lượng".
Chư Thiên đứng dậy bạch với Giả
Can rằng: "Đệ tử chúng con từ nay trở về Thiên cung, nhưng không
biết Hòa thượng chứng nào mới bỏ cái thân tội báo đây, để
được sanh lên cõi trời cùng con thấy nhau?". Giả Can đáp rằng:
"Ta hẹn trong bảy ngày sẽ bỏ thân tội này, rồi sanh lên cõi trời Đâu
Suất. Vậy các ngươi cũng nên nguyện sanh về cõi trời ấy. Là vì sao? Bởi cõi
trời Đâu Suất phần nhiều có các vị Bồ Tát thuyết pháp giáo
hóa cho những người trời muốn cầu Phật đạo". Thiên đế thưa
rằng: "Như lời thầy dạy, đệ tử chúng con ở cõi trời Đao Lợi chừng
phước hết, mạng chung đều sẽ nguyện sanh lên cõi trời Đâu Suất kia,
con cùng thầy thấy nhau để theo hầu hạ nhờ thầy dạy bảo, đúng như thề nguyện
hôm nay vậy". Chư Thiên nói xong liền dùng hương hoa ở cõi
trời rải trên mình Giả Can rồi từ biệt lui di. Chư Thiên đi rồi
Giả Can vẫn ngồi một chỗ nhất tâm chuyên niệm pháp Thập thiện,
không đi kiếm ăn, đến bảy ngày mạng chung, sanh lên cõi trời Đâu Suất làm
con vị Thiên vương, còn nhớ được túc mạng lại đem pháp Thập
thiện giáo hóa chư Thiên.
Bấy giờ, Phật bảo Đại
vương rằng: "Đại vương phải biết Giả Can hồi đó tức là thân Ta bây giờ.
Vị trời Đế Thích hồi đó, tức là Xá Lợi Phất nay
đây. Giáo thọ Đại sư Ưu Ba Đạt của vua A Dật Đa hồi đó
tức là ngài Di Lặc ở cõi trời Đâu Suất bây giờ. Còn tám vạn chư
Thiên tức là tám vạn Bồ Tát ở ngôi bất thối trong cõi
Ta Bà quốc độ này". Phật giáo lại bảo Đại
vương rằng: "Ta còn nhớ thuở xưa, Ta vừa mới phát tâm tu đạo Bồ
đề nhẫn đến Pháp nhẫn Vô sanh ở trong khoảng thời
gian ấy Ta thường cùng với Di Lặc, Xá Lợi Phất v.v...
Vì cầu pháp nên Ta siêng năng tinh tấn không đoái đến thân
mạng theo dõi Minh sư, gần gũi hầu hạ, tinh nghiêm học vấn thành
tựu được trí huệ; vì nhờ sức trí huệ, nên ở trong năm đường tùy
sanh ra chỗ nào đều giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh,
khiến cho chúng sanh được khỏi khổ cho đến khi thành
Phật; đều nhờ Bát Nhã trí huệ phương tiện mà đoạn trừ tất cả nhân
duyên kiết tập, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác; rồi lại đem trí
huệ ở trong cõi Ta Bà quốc độ này giáo hóa chúng
sanh khiến khỏi cái khổ trong ba cõi. Thế cho nên Ta
nói Bát Nhã trí huệ có bốn danh nghĩa".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc và
cả quyến thuộc nghe Phật nói rồi thì tâm ý mở tỏ liền đứng dậy làm
lễ vui mừng khấp khởi: Đứng chắp tay bạch Phật rằng:
"Thưa Thế Tôn! Hôm nay con gặp Phật được nhiều thiện lợi; nghe Phật
nói pháp không biết chán nản. Sở dĩ vì sao? Vì Đức Thế
Tôn trước nói bốn pháp Chơn Đế và pháp Thập Nhị Nhân
Duyên là cái đạo xuất thế gian, nhưng vì căn tánh ám độn mê
man không hiểu, do vì không hiểu cho nên thân thể mỏi mệt. Nay
nghe Phật nói cái pháp tu của Bồ Tát; tuy chưa hiểu hết song lòng con rất
ham mộ khao khát muốn nghe tâm không nhàm đủ. Đệ tử nay muốn phát
tâm Bồ đề, cầu đạo Vô thượng. Cúi xin Đức Thế
Tôn thương xót hứa cho và dạy bảo pháp tu theo Bồ
Tát để cho chúng con y theo pháp tu hành".
Phật bảo vua rằng: "Này Đại
vương, pháp tu Bồ Tát như trên đã nói rõ. Thân, khẩu, ý nghiệp làm
theo mười điều lành và pháp Ba La Mật tóm thâu tất cả pháp
trợ Phật đạo, Đại vương có thể làm được không?". Vua đáp rằng:
"Như lời của Thế Tôn nói pháp tu Thập thiện và ba giới
của tâm thật rất khó giữ gìn, phải làm thế nào thọ rồi đừng cho quên mất?".
Phật bảo vua: "Tâm người đời
như con lộc lại cũng thí như con viên hầu, vì bị những ngọn gió phiền não thổi rung
động, thế nên muốn tu pháp Thập thiện không đặng chậm trễ vậy. Tu
pháp Thập thiện phải có hạn trong ba thời. Sao gọi là ba thời? Nghĩa
là sáng sớm đến bữa ăn ngọ gọi là thượng thời; ăn xong một bữa gọi là
trung thời; đi một bước là hạ thời. Thọ pháp Thập thiện tùy
theo chỗ lãnh được pháp nào, ở trong thời đây toan giữ tâm mình, ba giới
cho bền vững đừng cho lọt mất, thế nên gọi là pháp tu Thập thiện".
Vua nói rằng: "Như Thế
Tôn nói cái công đức tu Thập thiện hạn trong ba thời rất
ít, thì làm sao sanh được phước?". Phật bảo vua rằng: "Người tu
pháp Thập thiện, thời giờ ngắn mà công đức rất nhiều.
Vì sao? Vì ba giới của tâm rất khó giữ gìn, tuy giữ gìn trong
giây lát mà được quả báo vô lượng, thí như có người ở trong trăm năm
chất đống củi rơm, dùng lửa đốt đó thì trong giây phút, thảy đều cháy hết.
Thế cho nên phải biết rằng:
"Tu pháp Thập thiện thời giờ rất ít mà có thể diệt được vô
lượng tội trọng ác nghiệp. Như người dò lửa chuyên cần dụng
lực trong giây phút được lửa, mà công lực của lửa ấy có thể đốt
cỏ cây rừng bụi trong thiên hạ chỉ trong chốc lát đều cháy sạch. Đại
vương phải biết, người tu pháp Thập thiện cũng lại như thế.
Vì tu trong giây phút mà có thể diệt hết vô lượng tội trọng ác
nghiệp; và hay khiến cho người tu nứt mộng Bồ đề. Mầm mộng Bồ đề đã
nứt nảy dần dần thêm lớn cho đến khi thành Phật quả".
Vua nghe Phật nói lời ấy rồi liền đứng
dậy làm lễ tất cả vui mừng đặng chưa từng có. Bèn bạch với Đức
Thế Tôn rằng: "Thưa Thế Tôn! Đệ tử con nay được nhiều thiện
lợi. Sở dĩ vì sao? Bởi nghe Đức Thế Tôn nói nhân
duyên công đức tu pháp Thập thiện hay khiến cho chúng
sanh thành tựu mộng Bồ đề. Đệ tử con nay, chí
thích Bồ đề sẽ siêng năng tu hành, tâm không lui sụt".
Khi Phật nói xong, những kẻ theo hầu vua
như quần thần, quan dân, hậu cung, thể nữ, Phu nhân cùng bốn bộ đệ
tử Thiên long, Quỷ thần, Nhơn và Phi nhơn v.v... hơn năm
nghìn người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ đề.
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc và bà Đại Phu
nhân hễ lúc ra vào đi đến, cũng thường sai bốn người sức lực rất
mạnh tên là Phiến Đề La; sai bốn người này khiêng kiệu cho Hoàng hậu.
Hoàng hậu ngồi trên kiệu bằng thất bảo để ở ngoài Tinh xá Kỳ
Hoàn, bảo các người Huỳnh môn canh gác, các người Huỳnh môn giao lại cho bốn
người Phiến Đề La còn mình thì đến chỗ Phật nghe pháp. Bọn Phiến Đề
La đều nằm dưới kệ ngủ mê không hay chi cả, lúc đó có kẻ hung nhân trộm lấy
ngọc ma ni châu trên kiệu báu của hoàng hậu.
Khi ấy, các người Huỳnh môn tạm ra xem
kiệu nhưng không thấy bảo châu, trong lòng kinh hãi sợ Hoàng hậu quở
trách, liền bảo bốn người Thạch nữ rằng: "Ta sai các
ngươi coi chừng kiệu cớ sao trộm lấy ngọc bảo châu". Trong bốn
người thưa rằng: "Thật chúng tôi không thấy". Huỳnh
môn nổi giận lấy roi đánh các người Thạch nữ đau nhức thấu
xương, trong đó có một người Thạch nữ biết mình không có trộm
mà chịu oan bèn bỏ tuôn chạy xen vào Tinh xá la
to kêu oan. Mọi người nghe nhưng không biết việc chi.
Phật bảo A Nan: "Ngươi hãy đi
đến chỗ các người Huỳnh môn kia, bảo đừng đánh oan cho người vô tội. Vì sao thế?
Vì bốn người Thạch nữ ấy chính là thầy đời trước của Hoàng hậu. Chúng
đã là kẻ vô tội, vì sao bị đánh đập; đó là tự gây nhân duyên nghiệp
ác cho đời sau". Bấy giờ Hoàng hậu nghe Phật nói lời ấy rồi, liền đứng
dậy cung kỉnh chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế
Tôn! Như lời Thế Tôn nói té ra bốn người Thạch nữ khiêng kiệu
cho con đây, chính là thầy đời trước của con. Nhưng vì con mê muội nên
không rõ, cúi xin Thế Tôn giải bày những nhân duyên ấy, cho
các người trong hội đây đều được nghe biết?". Phật bảo: "Hoàng hậu
kêu các người Thạch nữ đến trước Thế Tôn để Ta nghiệm xét
chỗ hư thật".
Hoàng hậu vâng mạng liền sai Huỳnh môn bắt
hết đem đến; khi ấy bốn người Thạch nữ vừa trông thấy Phật cúi đầu
rơi lụy, quỳ gối chắp tay, Bạch Thế Tôn rằng: Thật con không có
trộm lấy ngọc châu, nhưng không biết vì lẽ gì bắt oan tội ấy, đánh đập
làm thân thể con tan nát". Đức Thế Tôn đáp: "Tội nghiệp
nhân duyên tự thân mình gây tạo ra, chớ không phải cha mẹ làm tội".
Bấy giờ, cả chúng Bồ Tát vô lượng ức
người, ở trên hư không trong tâm đều vui mừng, rải các hoa hương
tươi đẹp vô cùng, để xông sạch các uế trược trần
lao cho chúng sanh. Thiên vương ở cõi trời Tự Tại cũng
rất vui mừng, ở trên không và ngàn ức chúng đều hết lòng cung
kính rải các diệu y; các trời Phạm Thiên lặng lẽ, lấy làm quý lạ,
đồng nhất tâm tự quy. Các vị Tiên nữ tư dung tươi đẹp vô
cùng, đánh các thứ kỹ nhạc, trăm ức triệu người cũng lại làm lễ. Cả thảy đều
diễn ra những lời tuồng như quyến thuộc của Đức Thế Tôn ngồi
khắp cõi Phật. Những hào quang tỏa đều chiếu các cõi; bao nhiêu
triệu ức thân, bao nhiêu hào quang nhu nhuyến, bao nhiêu pháp giới không
có chỗ nào mà không thông suốt cả, Đức Như Lai là bậc chí
chơn, mỗi một chân lông phóng ra một tia hào quang. Hào quang ấy sáng
tỏ diệt hết những trần cấu của chúng sanh, những bụi
trần ở các cõi nước, còn có thể đếm số được mà số người trong chúng hội đây
không thể đếm được.
Có khi thấy thân Phật, các tướng nhiệm mầu
mà cũng như thấy các vị Chuyển Luân đi lại các nước làm những việc
cao thượng, rất tốt tuyệt vời, hoặc có người thấy các vị Thánh nhân,
hoặc thấy các vị Đại Thần lớn ở cõi trời Đâu Suất hiện xuống mẫu
thai, rồi lại sanh ra; tuy ở trong thai cũng hiện ra vô số ức
cõi nước, hễ Ngài sanh ra chỗ nào thì chỗ ấy hiện thành cõi Phật. Cái
bổn nguyện của bậc Đại sư là vì chúng sanh mà phải xuất
gia tu thành Phật đạo, thành bậc tối Chánh Giác, vận chuyển
pháp luân, hiện ra các cõi Phật, vô số ức cõi vì cũng
như thầy huyễn sư, học giỏi nghề chú thuật, tùy theo thọ mạng đến
đâu hiện ra vô số pháp; chỗ trí tuệ tu học của Đức
Thế Tôn cũng như vậy.
Là vì chúng sanh nên phải xuất
gia, ở trong cảnh rỗng rang vắng lặng, vẫn là vô tướng, các pháp
bình đẳng, cũng như hư không; giáo giới của Phật rất lợi ích. Vốn ở
trong chỗ không mà hiện ra chỗ có, rất nhiệm mầu. Phật đi đến chỗ nào
thì chỗ ấy được yên ổn, đó đều là tự nhiên thương xót chúng
sanh; nên nói ra kinh điển là tướng của tất cả pháp nhưng thấy cái tướng
của tất cả pháp đều bình đẳng đệ nhất vô tướng, các nghĩa của Thế
Tôn theo chỗ Thánh huệ của Ngài, đều bỏ các hình tướng hữu
tướng và vô tưởng, rõ các hình tướng đều bình đẳng,
mau được thành tựu ngồi ở trước mọi người diễn ra những tiếng
tăm như vậy, triệu ức vô cùng lời nhân từ hòa nhã, ở đời
thì hàng phục các loài ma Thiên nữ.
Do Ngài biết trong chúng hội chí
chơn vắng lặng, như mặt trăng sáng tỏ, chiếu diễn ra bao nhiêu
phẩm; thời các hàng Phật tử tu tập theo, sự nghiệp của
bậc Đại thừa thì cần nêu ra làm các công quân sự nghiệp cho
mọi nhà, để ai nấy được thấy điềm lành đem đến, trong tâm rất vui
mừng, Thánh huệ của bậc Đại nhân, ca tụng vang rền từ trên
trời rơi xuống; những người làm lành hay làm ác đến khi thọ
báo cũng có khổ có vui, như vang dội tiếng, cũng như tham lợi hiện
tiền tâm làm việc tà siểm, không biết có đời sau, nhiều kiếp chịu khổ.
Vả luận ác từ nơi tâm sanh ra, trở lại hại mình, cũng sắt sanh ra
sét, sét tự tiêu mòn hình thể của sắt.
Bấy giờ, vua lại vòng tay bạch Phật:
"Bạch Đức Thế Tôn, từ trước đến nay, thuyết pháp đều
có nhân duyên. Nay bốn người Thạch nữ đây, bổn nguyện đời trước
có nhân duyên gì? Xin Phật vì con và đại chúng giải nói để khai
ngộ cho kẻ mờ ám được hiểu, thêm nhiều lợi ích và mọi người được
nhờ cậy".
Phật bảo vua rằng: "Muốn nghe
rất hay, hãy để lòng lóng nghe Ta vì ngươi chỉ vẻ nói cho".
Phật lại nghĩ rằng:
"Trong Chánh pháp của Ta có các thầy Tỳ - kheo, lời
nói, việc làm, không giống nhau, ý nghĩ miệng nói trái
nhau. Song cũng xuất gia học đạo, hoặc vì lợi dưỡng, tiền
tài ẩm thực; hoặc vì tiếng khen và muốn đông nhiều bà con; hoặc có
người nhàm chán pháp vì Vua sai khiến mà đi xuất
gia học đạo; chớ không có tâm cầu ba pháp môn giải thoát để
khỏi cái khổ trong ba cõi; đem tâm bất tịnh thọ cúng dường;
không biết rằng đời sau nhiều kiếp chịu khổ đền bù nợ trước;
vì những lẽ ấy đâu không nói sao được".
Phật bảo vua rằng: "Ta nhớ hồi quá
khứ từ vô số kiếp có một nước lớn tên là Bùi Phiến Xà, có một nữ
nhân tên là Đề Vi cũng là giòng giống Bà-la-môn; chồng chết ở góa, nhà rất
giàu mà không con cái, lại không cha mẹ, côi cút quạnh hiu không
ai nhờ cậy. Theo phép Bà-la-môn: nếu việc chi không được như ý liền
sanh ra sự thiêu thân".
Các thầy Bà-la-môn thường thường rủ
nhau đi đến nhà Đề Vi mà giáo hóa rằng: "Các việc khổ đời nay
đâu không bởi tội nghiệp đời trước của ngươi. Sao gọi là tội? Nghĩa
là bởi không cung kỉnh các thầy Bà-la-môn; không hiếu thuận cha mẹ,
chồng con; lại không có từ tâm nuôi dưỡng con cái; những tội như
thế nên đời nay côi quạnh chịu khổ. Ngươi nay nếu không tu phước cho
hết tội thì đời sau chịu khổ đến nỗi đọa vào địa ngục; đương khi
đó làm sao ăn năn cho kịp".
Bà Đề Vi hỏi rằng: "Phải làm
phước gì được hết tội cho ư?".
Các thầy Bà-la-môn nói rằng: "Muốn
hết tội có hai cách. Một là: người tội nhẹ thì tự tay gội đầu, lấy nước
thơm tắm gội rồi vào trong Thiên Miếu sám hối từ tạ với trời Na
La Diên; thỉnh đủ một trăm thầy Bà-la-môn thiết đãi ăn uống, ăn uống xong
rồi lại dùng một trăm con bò cái mới đẻ con mà dâng cúng cho các thầy Bà-la-môn
vậy sau sẽ hết tội. Sở dĩ vì sao? Vì các thầy Bà-la-môn là người tịnh
tu phạm hạnh, không ăn tửu nhục, hành, tỏi... ngũ vị tân, chỉ dùng sữa
bò để làm thức ăn, khiến nhà thí chủ đàn việt hết tội sanh
phước, đời đời sanh ra sở nguyện tùng tâm.
Như người nay tội nặng phải lấy tất cả đồ quý
báu chỗ có trong nhà mà cúng thí cho năm trăm thầy Bà-la-môn. Các thầy
Bà-la-môn đặng của cúng thí rồi sẽ vì đó mà chú nguyện khiến
cho đời sau thường đặng giàu to. Hai là: người nào muốn hết tội nặng
thì nên đến bên sông Hằng, chất củi tự thiêu; các thầy Bà-la-môn sẽ lại chú
nguyện, khiến cho đời trước người chỗ tạo tất cả tội nặng nhẹ, đồng thời tiêu
hết, đời sau sanh ra không còn cái khổ sống lâu không lường, khoái lạc
không cùng, cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái vui vầy sum họp".
Khi ấy bà Đề Vi liền ưng
thuận, theo quyết định nhất tâm sẽ tự thiêu thân, bèn
sai tôi tớ trong nhà đem mười cỗ xe vào trong núi đốn củi để làm phép thiêu
thân.
Khi bấy giờ, trong nước có một vị Đạo nhân
tên là Bát Đề Bà tinh tấn trì giới, đa văn trí huệ thường
đem từ tâm giáo hóa thiên hạ khiến ai ai cũng cải tà
quy chánh, bỏ dữ làm lành. Ngài nghe đồn bà Đề Vi muốn tự
thiêu thân sanh lòng thương xót, đi đến chỗ kia hỏi bà Đề Vi
rằng: "Sắm sẵn củi lửa muốn làm việc gì?".
Bà Đề Vi đáp rằng: "Muốn tự
thiêu thân để diệt hết tội khổ". Biện Tài nói rằng: "Tội
nghiệp đời trước tùy theo tinh thần không theo với thân, thiêu
thân chịu khổ mà nào được hết tội".
Luận như người họa phúc từ
tâm mà có; hễ tâm niệm thiện, hưởng cái quả báo thiện;
hễ tâm niệm ác, thì chịu cái quả báo ác, tâm niệm khổ
vui, thì chịu cái quả báo khổ vui. Ví như người chết
đói thời làm quỷ đói; người chết khổ não thì chịu cái quả
báo khổ não; người chết hoan hỷ thì chịu cái quả
báo hoan hỷ; an ổn khoái lạc quả báo cũng như vậy.
Ngươi nay làm sao ở trong vòng khổ não, mà muốn hết tội, mong được
cái quả báo lành. Rất là vô lý? Thôi! Đừng làm tốt hơn!
Lại này nữa Đề Vi, như người bệnh
khổ trong khi bị khổ ép bức, nếu có người ác đi đến chỗ đó mắng nhiếc người
bệnh, rồi lấy tay xách lỗ tai. Vậy đối với ý ngươi nghĩ sao? Người bệnh lúc
ấy, dù có thiện tâm, nhưng khỏi buồn giận chăng?".
Đề Vi đáp rằng:"Người bệnh khổ kia
lúc chưa thấy ai, còn ôm lòng buồn rầu, huống chi bị xách lỗ tai, mà hòng
không giận".
Biện Tài đáp rằng: "Người nay
cũng như vậy. Vì tội đời trước nên nay phải cùng khổ quạnh hiu thường
ôm lòng lo buồn, lại muốn đốt thân, lìa khỏi sự buồn khổ, đâu có thể được
ư? Ví như người bệnh khổ, bị người mắng nhiếc thì càng
thêm khổ não, trăm ngàn vạn bội. Huống chi là khi thiêu thân, lửa dữ bốc
cháy, thân thể cháy tiêu, trong khi hơi thở chưa dứt, tâm
chưa hư hoại; đương khi thân tâm bị đốt đó, thần thức chưa
lìa, cho nên chịu khổ não tâm buồn phiền muộn, từ đó mạng
chung, sanh trong địa ngục, chịu cái khổ trong địa ngục, càng thêm thảm
kịch, gấp trăm ngàn vạn phần cầu ra không khỏi; huống chi là muốn thiêu thân để
cầu lìa hết khổ?!
Lại nữa này Đề Vi, thí như con trâu kéo
xe nhàm chán sự mệt nhọc, muốn phá cho hư xe nhưng xe trước nếu hoại
thì xe kết sau đó lại tròng ách vào cổ, vì tội trâu chưa hết. Ngươi nay cũng lại
như vậy. Dù cho thiêu hoại trăm ngàn muôn thân, song tội nghiệp nhân
duyên tiếp nhau không dứt. Ví như những người ở trong địa
ngục A Tỳ bị thiêu đốt, trong một ngày tám muôn lần chết, tám muôn lần
sống, trải qua một kiếp rồi, tội kia mới hết. Huống chi ngươi nay mà
đốt thân một lần, mà muốn cầu hết tội, đâu lý đặng ư?".
Khi bấy giờ, Biện Tài mỗi
món nhân duyên vì nói Chánh pháp. Đề Vi nữ nhân, tâm ý mở tỏ,
liền đổi chí nguyện hết nghĩ thiêu thân, thưa với ông Biện
Tài rằng: "Vậy con phải làm phương pháp gì mới hết tội?".
Ông Biện Tài đáp rằng: "Tâm trước tạo ác ví như đám
mây che phủ mặt trăng tâm sau khởi thiện, thì cũng như cây đuốc
sáng, làm cho tiêu hết bóng tối. Ngươi nay may có cái ý muốn hết tội,
thì sẽ có phương tiện, nay có thể khiến cho ngươi, không tốn một đồng
tiền, nhẫn đến không bị một chút khổ, diệt hết tội khổ, hiện đời được yên ổn, đời
sau sanh ra chỗ nào, thì thiện nguyện tùng tâm".
Bà Đề Vi nghe rồi, tâm rất vui
mừng, sự sợ hãi liền dứt, như người tù mắc tội nặng, mong được ân
xá ra khỏi, bèn đứng dậy sửa sang cung kỉnh lễ bái hỏi
han, lại dạy những người trong nhà, sửa dọn một cái tòa cao, có đủ mền nệm khảm
đệm gấm nhiễu, hàng lụa tôn nghiêm bậc nhất, rải hoa đốt
hương, cầu thỉnh ông Biện Tài lên tòa cao. Ông Biện
Tài thọ thỉnh liền lên tòa. Lúc Đề Vi nữ nhân cùng cả quyến
thuộc trong nhà có hơn năm trăm người, nhóm lại đi nhiễu xung
quanh ông Biện Tài rồi cung kỉnh cúi đầu chắp tay. Đề
Vi nữ nhân thưa với ông Biện Tài rằng: "Vừa nghe
lời thầy nói sự hết tội, tâm con rất vui mừng, nhưng tâm còn có chút
nghi. Cúi xin thầy nói cái pháp trừ tội, để cho con y như pháp mà tu
hành". Ông Biện Tài nói rằng: "Nguyên do tạo tội là ở nơi
thân, khẩu, ý. Thân có ba nghiệp không lành là: Sát, đạo, dâm. Miệng
có bốn nghiệp không lành là: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác
khẩu. Ý có ba nghiệp không lành là: Tật đố, sân nhuế, kiêu
mạn, tà kiến, ấy là mười nghiệp ác, phải chịu cái quả
báo ác. Nay ngươi phải nhất tâm thành thật sám hối; dù cho
đời nay có những tội như vậy, nay đều sám hối tất cả thì được khỏi tội
và hết tội".
Ngươi phải lập cái lời thệ, từ đây về
sau không dám tái phạm và vì tiền nhân, cha mẹ, anh em với
chồng của chúng con, chỗ có tội lỗi, con nay nhất tâm sám hối, bỏ
dữ làm lành, chỗ có phước đức nhân duyên đều thí cho tất cả chúng
sanh chịu khổ, khiến cho được yên vui, nếu chúng sanh có tội con
xin chịu thay thế.
Lại lập lời thệ rằng: "Ngày nay con
nhờ cải tà về chánh, hối tội tu phước, do nhân duyên đây, bỏ
thân này, thọ thân khác, cho đến khi thành Phật thường gặp
Minh sư, gặp Thiện tri thức thọ mạng không lường, thường
cùng cha mẹ, chồng vợ, con cái sáu thân quyến thuộc, thường giúp
đỡ nhau, không bị khổ hoạn như ngày hôm nay vậy". Ông lại bảo Đề Vi nữa rằng:
"Những pháp như thế đều là cái pháp Hối quá diệt tội".
Bấy giờ, Đề Vi và cả quyến thuộc, đối
với ông Biện Tài, quỳ gối chắp tay thưa với ông Biện
Tài rằng: "Đệ tử thưa với ông Biện Tài rằng: "Đệ tử
chúng con vâng lời thầy dạy bảo, đã như pháp sám hối rồi;
vậy cúi xin thầy dạy chúng con pháp lành khác, chúng con sẽ siêng năng vâng
làm, để tăng thêm công đức". Ông Biện Tài bảo rằng: "Ngươi
nay phải thành tâm quy Phật, quy Pháp, quy Tỳ-kheo Tăng, nói như vậy
ba lần".
Nói nay con trọn dời vâng lãnh
pháp Thập thiện và nói như thế này: Đệ tử con pháp
danh là... từ nay đến trọn đời không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm ấy là Thiện nghiệp của
thân. Không vọng ngôn, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt,
không ác khẩu ấy là Thiện nghiệp của khẩu. Không tật đố, sân
nhuế, kiêu mạn, tà kiến ấy là Thiện nghiệp của ý. Thế
nên gọi là Thập thiện giới pháp.
Khi bấy giờ, ông Biện Tài truyền
trao cho bà Đề Vi pháp Thập thiện rồi thì bà Đề Vi
và cả quyến thuộc, vui mừng khấp khởi, hết lòng phụng
hành, nữ nhơn Đề Vi lại vì thiết đãi đủ trăm thức đồ ăn uống, và bao
nhiêu của quý rồi, đối trước ông Biện Tài quỳ gối chắp
tay thưa rằng: "Cúi xin thầy gia tâm thương xót giáo
hóa, nay con sẽ vì thầy dựng lập cung xá, tùy theo chỗ thích hợp trọn
đời phụng sự thầy". Ông Biện Tài đáp rằng: "Ngươi
nay dã có thể bỏ tà về chánh, tròn tu pháp Thập thiện, làm con vị Pháp
vương. Vậy thì ngươi nên đem pháp Thập thiện, giáo
hóa trong thiên hạ cũng gọi là đền trả ơn nặng cho thầy
rồi. Ngươi nay đã đắc độ rồi, ta không cần phải ở lại ta
nay còn phải đi đến chỗ khác giáo hóa nữa".
Lúc bấy giờ, Đề Vi biết thầy không ở lại,
liền đem xe chở những của báu trong kho, đem dâng cho thầy, mong thầy
nhận lãnh. Song ông Biện Tài không thọ mà từ tạ lui đi. Khi đó, Đề
Vi tự tâm nghĩ rằng: "Cái sự giúp sống cho ta ngày nay đâu không
nhờ Tôn sư Hòa thượng khai ngộ mới đặng thành tựu, ơn
nặng dạy bảo, nếu thỉnh không ở lại và cũng không thọ của
báu thì phải làm sao?". Buồn cảm thương tâm, đôi hàng giọt
lệ, cúi đầu từ tạ phân tách ra đi. Sau khi ông Biện Tài đi
rồi, nữ nhân Đề Vi cùng cả quyến thuộc hơn năm trăm người
thường đem pháp Thập thiện lần lựa cùng nhau giáo hóa trải
qua nhiều ngày.
Khi bấy giờ, trong nước bỗng gặp gạo mắc, nhân
dân đói khát, khi đó có năm vị Tỳ - kheo, lười biếng giải đãi,
không tham học hỏi giáo lý, kinh luật, lại không chuyên
tu, trì giới, tinh tấn, nên người đời khinh dể không cúng dường,
nghèo cùng khốn khổ không có kế gì sống được. Năm người bàn rằng:
"Vả luận người ta mưu sống, tùy thời thay đổi hình dạng, mạng
người rất chí trọng, không lẽ chịu chết". Mỗi người đều đi xin, sắm được tọa
cụ, giường dây, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rải hoa,
treo tràng phan rực rỡ y theo thứ lớp mà ngồi; ngoài
thân giả bộ như thiên tướng, trong tâm thì tà trược. Người đời trông
thấy đó tưởng là Thánh nhân, đem đến cúng dường trăm thứ đồ ăn
uống, xúm lại cúng dường; thế là năm người no đủ có dư.
Khi bấy giờ, bà Đề Vi nghe việc
ấy rồi liền sai người dọ hỏi. Người đi dọ tin rồi về thưa rằng: "Có năm vị Thánh
nhân ngồi riêng trong núi, người ta xúm lại hầu hạ như hầu hạ vị
Thiên thần".
Đề Vi nghe rồi, trong tâm rất hoan
hỷ, mà tự mừng rằng:"Nguyện ta đã mãn vậy". Đoạn sáng mai sai người sắm
sửa bảo xa, hương hoa kỹ nhạc, trăm thứ thức ăn đi đến
chỗ năm thầy Tỳ-kheo.
Đề Vi đến đó rồi làm lễ hỏi han, thiết
đãi cúng dường; ăn uống xong. Đề Vi và quyến thuộc cung
kính chắp tay thưa với năm thầy Tỳ-kheo rằng: "Đức thầy rất lớn,
bậc Vô thượng phước điền chúng sanh nhờ cậy, không dám tự khinh;
theo ý ngu kẻ Đệ tử này muốn thỉnh Tôn linh, quang lâm đến bần xá, để
tỏ chút lòng thành cúi xin thương xót, giúp kẻ quần
sanh; đệ tử cũng có vườn cây thanh tịnh, suối trong ao tắm, đẹp
đẽ tươi sáng".
Bà Đề Vi và cả quyến thuộc,
cúi đầu đôi ba lần cầu thỉnh. Khi ấy năm thầy Tỳ-kheo biết bà chí
thành mới hứa chịu đó. Đề Vi hoan hỷ từ tạ trở về nhà,
sai người chưng dọn xe báu, đến rước năm thầy Tỳ-kheo về nhà để cúng dường. Nữ
nhân Đề Vi có vườn cây tốt đẹp, cách nhà không bao xa. Miếng vườn kia
vuông vức được mười mẫu, trong đó có suối trong, ao tắm hoa thơm quả
lạ, lại có những thứ chim rất đẹp như là: chim Giao tịnh, chim Oan ương; ở
trong phòng kia dựng lập phòng nhà, xây đắp bằng bảy báu, trong
phòng nhà kia sắm đủ giường nằm chiếu nệm và những tọa cụ tốt đẹp,
thơm sạch bậc nhất, rồi mời thầy Tỳ-kheo về ở trong đó. Nữ nhân Đề
Vi trọn đời cung cấp phụng sự, mùa nào thức nấy đồ ăn uống,
thuốc thang cúng dường hầu hạ không sái thời giờ.
Khi ấy, năm thầy Tỳ-kheo đã được chủ
nhân ân hậu cúng dường, an ổn sung sướng mà tự nghĩ rằng:
"Có gì yên ổn cho bằng. Luận như người sanh ra ở đời phải dùng đủ
thứ phương thế tìm kiếm tiền của để giúp cơn nghèo ngặt; tuy đặng như
ý nhưng cũng không bằng bọn chúng ta, đã chẳng nhọc thân mà lại được
hưởng phước lộc, đâu không nhờ sức trí huệ đó hay sao?"
Năm thầy Tỳ - kheo kia xét thấy chủ
nhân hết lòng trọng đãi, mới cùng nhau bàn rằng:"Tuy đặng chủ
nhân tùy nghi cúng dường mỗi ngày giàu to nhưng tính đến năm
nghèo như cái năm đói rét, thì không có thể giúp cho người được giàu vui; vậy bọn
ta phải ra phương tiện để tìm kiếm tiền của, dành dụm thời
sau mà hưởng cái sự vui ngũ dục".
Bàn như thế rồi, liền cùng nhau thay đổi,
sai một người đi dạo trong các làng xóm, rao nói với các người, xướng cái lời
như thế này:
"Bốn thầy Tỳ-kheo kia, yên ở một
chỗ vắng lặng giữ gìn giới cấm dứt hẳn rượu thịt, không ăn
hành tỏi đáng bậc phạm hạnh; tu thiền chỉ quán chứng nghiệp vô
lậu; tu hành không bao lâu sẽ thành quả A la hán, thật là bậc Vô
thượng phước điền trong thiên hạ".
Những người nghe lời ấy rồi,
đua nhau xúm lại mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung
kính cúng dường, như thế nhiều năm. Còn nữ nhân Đề Vi một lòng
kính tin, cứ việc tùy nghi cúng dường hoan hỷ không
chán. Mãn kiếp trọn đời được sanh lên cõi trời Hóa Lạc.
Còn năm vị Tỳ - kheo kia, chuyên làm việc
xảo ngụy, vì tâm tà trược, nên khi phước hết mạng chung, sanh vào đại ngục;
tám nghìn ức kiếp chịu cái quả báo rất khổ. Tội địa ngục hết
rồi phải chịu thân ngạ quỷ, ly mỵ, vọng lượng, lần lựa như thế trải
qua tám nghìn kiếp; tội ngạ quỷ hết rồi, lại chịu cái
thân lục súc sanh, để đền trả của cúng dường đời trước cho
chủ nhân.
Nhân duyên nghiệp báo, hoặc làm lạc
đà, lừa, trâu, ngựa, tùy theo chủ nhân chỗ thọ phước gì thì thường
đem sức mạnh để đền trả cho chủ nhân, lần lựa như thế cũng đến tám
nghìn đời; tội súc sanh hết rồi tuy đặng thân người, nhưng các
căn ám độn, nam cũng không phải nam, nữ cũng không phải nữ, gọi đó
là Thạch nữ: Từ đây sắp về sau, trải qua trong tám nghìn năm,
thường đem sức mạnh đền trả cho chủ nhân, đến nay chưa hết.
Phật bảo vua rằng: "Đề Vi khi
đó là Hoàng hậu đây vậy. Ông Biện Tài khi đó là Mục
Liên đây vậy. Còn năm thầy Tỳ - kheo, tức là năm người bọn Phiến Đề
La theo hầu hạ khiêng kiệu cho bà Hoàng hậu hôm nay đây".
Vua bạch Phật rằng: "Theo
như lời của Đức Thế Tôn nói thì nhơn có năm người, mà nay thì chỉ thấy
có bốn người khiêng kiệu còn một người nữa ở chỗ nào.
Phật bảo vua rằng: "Còn một
người nữa, người ấy thường ở trong cung quét dọn cầu xí, tức là người đổ phân
đó vậy".
Hoàng hậu nghe rồi rùng mỉnh rởn ốc, ôm
lòng kinh sợ, liền đứng dậy làm lễ Phật, đứng hàu chắp
tay mà bạch Phật rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Như lời của Đức
Thế Tôn nói, té ra bọn Phiến Đề la là nhân duyên thầy
của con đời trước, lòng con thiệt rất lo sợ, sợ là sợ phạm tội nghịch. Sở
dĩ vì sao? Vì luận người là bậc thầy, thì phải cung kỉnh đầu đội lễ
bái mới phải lẽ vậy. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác
gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên lòng con rất lo sợ, cúi xin Phật thương
xót dạy con sám hối".
Phật bảo Hoàng hậu rằng: "Bởi
Hoàng hậu có phước đức, vốn không có tội lỗi cớ sao nghi sợ. Chúng
sanh tánh khác, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước,
làm ác thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước nhất tâm thanh tịnh tin
ưa làm phước, nhân duyên phước đức như thế, bởi bao nhiêu đời
trước sanh ra thường gặp Minh sư, tin thọ lời giáo huấn, gặp lành làm lành
gặp phước làm phước, cho đến ngày nay hưởng phước tự
nhiên gặp Phật ra đời, là vì nhờ phước đức nhân duyên đời
trước. Lại nghe Chánh pháp như thuyết tu hành, do nhân
duyên đó nên không có tội lỗi chi.
Bởi nhân duyên năm người bọn
Phiến Đề La, là do họ thuở trước gian dối nịnh hót không
có từ tâm, mà hưởng của người cúng dường. Nhân duyên tội
nghiệp đền trả nợ đời trước.
Hoàng hậu bạch rằng: "Thưa Đức Thế
Tôn! Nay con nghe Phật nói nhân duyên bổn nghiệp, đệ tử hết
nghi không còn lo sợ nữa. Nhưng không biết nhân duyên tội nghiệp của
bọn Phiến Đề La này, chừng nào mới hết vậy? Đệ tử con
nay xin tha thứ bọn Phiến Đề La, không dám sai khiến nữa, tùy
ý muốn đi đâu thì đi. Cúi xin Đức Thế Tôn thuyết pháp khai
hóa, khiến cho tâm bọn ấy hiểu đạo, cải ác tu thiện, mau được khỏi khổ".
Phật bảo Hoàng hậu rằng: "Nếu
nay muốn Ta khai hóa bọn ấy, thì phải nên kêu người đổ phẩn trong
cung kia lại đây luôn".
Hoàng hậu tức thời, sau sứ đi kêu bọn
Phiến Đề La lại. Sứ giả vâng mạng đi gọi bọn họ, trong giây
phút họ đến. Bọn Phiến Đề La cả năm người nhóm lại đứng ở trước Phật.
Đức Thế Tôn đại từ, trước dùng lời
lành an ủi sự mệt nhọc, nói rằng: "Chúng ngươi các
con, thân thể có được mạnh mẽ, an ổn vui sướng và
không khổ não chăng?".
Năm người nổi giận nói rằng:
"Phật không biết thời. Sở
dĩ vì sao? Vì ngày đêm cần khổ, bị đánh đạp sai khiến không
được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết những sự như
vậy hay sao. Mà trở lại hỏi các ngươi có vui sướng gì
chăng?"
Phật bảo năm người rằng: "Cái
sự khổ ngày nay, đều là do đời trước gian dối, nịnh hót, đem tâm bất
thiện, hưởng thọ người cúng dường, tội nghiệp nhân duyên lần
lựa sanh ra, nhân duyên tội đền trả cho đến đồi nay, vẫn
còn chưa hết. Nếu muốn cầu khỏi quả báo ác thì phải hết
lòng chí thành sám hối, cải dữ tu lành, do nhân duyên từ
đây mới được khỏi tội".
Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói
rồi, nổi giận đùng đùng, liền quay lưng trước mặt Đức Thế
Tôn, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa
Phật, đứng ở trước mặt bọn ấy, phương tiện bày vẽ
khuyên bảo sám hối: bọn Phiến Đề La quay về hướng
Đông, cũng có hóa Phật đứng ở trước mặt; lại xây về hướng
Tây, cũng có hóa Phật; liền xây bốn phương trên dưới cũng đều có Phật đứng
ở trước mặt. Bọn Phiến Đề La thấy Phật xung quanh, tức
thời năm người kêu to la oan, mà dấy lời như vầy: "Bọn chúng
tôi là người tội tệ ác, Phật nay vì sao, thấy khổ mà còn dằn ép thêm nữa".
Bấy giờ, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa
Phật lại thành một Phật. Phật bảo trong đại chúng, Quốc
vương, Hoàng hậu và các thầy Tỳ-kheo mà nói rằng: "Các ngươi có thấy bọn
Phiến Đề La ấy chăng?". Tức thời ai cũng đều thưa rằng:
"Dạ thấy". Phật lại bảo rằng: "Các ngươi phải biết chúng
sanh tội nghiệp có hai món chướng. Thế nào là hai món chướng?
Một là: Nghiệp chướng.
Hai là: Phiền não chướng.
Người tội nhẹ thì có phiền
não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng; mà bọn Phiến Đề
La đây có đủ cả hai chướng. Vì tội chướng nặng nên không được nghe
lời giáo hóa của Phật, không biết làm sao được".
Khi bấy giờ, Hoàng hậu thấy bọn Phiến Đề
La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm
thương tâm nói với năm người rằng: "Từ nay về sau đã rõ nhân
duyên thì tùy ý đi đâu cũng được, vui sướng đừng
lo". Bọn Phiến Đề La liền quỳ gối xuống khóc lóc thưa với Hoàng
hậu rằng: "Muôn tâu lệnh bà, năm người chúng tôi phụng sự hầu
hạ nhà vua không ngờ có cái lỗi gì mà ngày nay bị đuổi bỏ. Nếu có sự chi
không vừa ý, cúi xin bà rộng lòng tha thứ, để cho chúng con hầu hạ
như trước. Khi ấy, Hoàng hậu khiêm nhường từ tạ đôi ba lần, nhưng bọn Phiến Đề
La không muốn đi đâu hết.
Lúc ấy, Hoàng hậu lại bạch Phật rằng:
"Thưa Thế Tôn! Đệ tử thiệt tình dung thứ bọn Phiến Đề
La mà chúng không chịu đi đâu hết, sẽ tính làm sao?".
Phật bảo Hoàng hậu rằng: "Bọn
Phiến Đề La trả nợ đời trước chưa hết, nhân
duyên bó buộc nên đi không được. Chẳng cần làm sao, chỉ cứ tùy
thuận theo ý họ, để họ phụng sư như trước, đến chừng nào nhân
duyên đền trả hết, thì tự được giải thoát".
Lúc bấy giờ, Phật bảo rằng:
"Này Đại Vương! Vả luận người hay tu phước mà hay khiêm nhường, kính
trọng, một lòng thanh tịnh tu nơi đạo nghiệp thì được công
đức không lường; dù lửa cũng không thể đốt được, dù nước cũng không có thể
trôi được, dù cho trộm cắp, giặc cướp cũng không có thể làm gì được, dù
cho sức mạnh của Quốc vương cũng không thể lay động được.
Như Hoàng hậu hôm nay được hưởng phước báu vậy.
"Người đem tâm làm ác tham của hiện
tiền, như bọn Phiến Đề La, trải qua nhiều đời, chịu khổ đến
nay chưa dứt; dù gặp Phật ra đời được nghe lời giáo hóa, cũng
như gió thổi ngoài tai. Vì sức tội nghiệp, trở lại sanh ra oán
ghét, mờ mờ mịt mịt biết bao giờ sẽ khỏi".
Bấy giờ, Thế Tôn vì lòng
từ bi kêu các thầy Tỳ - kheo bảo rằng: "Như Ta trước đã nói được thân
người là khó, gặp Phật ra đời là khó, được nghe pháp là khó, hưởng được
tuổi thọ cũng khó; đệ tử các con đời trước có chút ít căn lành nên
nay được sanh làm người; gặp Phật ra đời, nghe pháp tin thọ, cắt dứt
tình ân ái, xa lìa cha, mẹ, anh, em, vợ, con, sáu thân quyến thuộc, xuất
gia học đạo, như người tù ra khỏi ngục; nên bỏ ác làm lành trong ngoài in
nhau; lời nói việc làm không sai khác, bớt sự ham muốn, biết vừa
đủ mà thôi, không tham nhũng sự vinh hoa ở đời; nhịn đói nhịn
khát, chí quyết tu hành, nghiên cứu học vấn tinh tường bỏ
hết các việc ác, trau giồi trí huệ, tu nghiệp vô lậu để ra khỏi
biển sanh tử. Lại đem trí huệ, tùy thuận giáo
hóa thiên hạ, thực hành mười điều lành, thế mới gọi là độ
mình, độ người đúng theo nghiệp Bồ Tát".
Khi bấy giờ, trong hội có các thầy Tỳ-kheo, nghe Phật nói rồi, tự xét chỗ hành vi của mình, thân, khẩu, ý,
nghiệp, không xứng với đạo pháp, hơn năm trăm người liền đứng dậy cung
kỉnh cúi đầu sám hối, khép nép chắp tay mà bạch Phật rằng:
"Như theo lời của Đức Thế Tôn vừa nói, trong ba nghiệp không
lành, chúng con có đủ. Nay đối trước Phật phát lồ sám hối; cúi
xin Đức Thế Tôn chứng xét lòng thành, từ nay về sau chúng con thệ
không dám làm quấy nữa, sẽ như pháp tu hành. Xin Phật chứng
minh".
Phật bảo rằng: "Này Tỳ-kheo các con! Bậc Thánh Tôn trong ba cõi là cha lành chúng
sanh, chúng con nay ăn năn tội ác, làm lành thật là đáng mừng, Ta sẽ tùy
hỷ cho".
Lại kế đó có năm trăm hàng thô hạnh Tỳ-kheo nghe lời ấy rồi, liền đứng dậy cúi đầu cung kỉnh xây mặt
trước Phật bạch rằng: "Lạy Đức Thế Tôn! Chúng con không có thể tu đạo xuất
gia. Sở dĩ vì sao? Vì từ xưa đến nay, chúng con vì việc lợi
dưỡng làm sự tà trược, láo dối không thật, thọ của người cúng dường, mắc
nợ rất nhiều; vì những lẽ như thế nên con ôm lòng lo sợ; nay
muốn bỏ đạo, trở về tục duyên, xin Phật thương cho".
Phật bảo các thầy Tỳ - kheo rằng:
"Hay thay! Hay thay! Ta cũng mừng cho các ngươi! Là vì lẽ sao?
Luận như người làm đạo, như cầm dao bén,
như bưng chén thuốc độc; nếu người nào không kham nổi thì chi bằng đừng
làm tốt hơn. Vì sao? - Vì giữ gìn giới không tinh tấn thì trở
lại hại mình. Mà nay các ngươi đã tin nghiệp báo, có tâm tàm
quý, vì có tàm quý, nên diệt trừ tội lỗi, căn lành tăng trưởng,
chừng Đức Di Lặc Bồ Tát sau khi thành Phật rồi thuyết
pháp hội ban đầu, các ngươi sẽ được độ trước".
Phật lại bảo các thầy Tỳ-kheo rằng:
"Thà cắt thịt mình dùng để nuôi miệng chớ không đem tâm tà thọ người cúng
thí. Khó lắm! Khó lắm! Cẩn thận! Cẩn thận!".
Khi bấy giờ, Phật tử La Hầu
La cùng năm mươi Sa - di, nghe Phật nói nhân duyên gốc ngọn tội
lỗi chỗ gây tạo của bọn Phiến Đề La rất lo sợ lắm; mỗi người liền
cung kỉnh đầu mặt lễ Phật, khép nép bạch với Phật rằng: "Thưa Đức Thế
Tôn! Con nay vừa nghe Phật nói nhân duyên túc nghiệp, quả
báo chịu khổ của bọn Phiến Đề La kia, lòng con rất lo sợ. Sở
dĩ vì sao?
Vì như Hòa thượng Xá Lợi Phất của
chúng con là bậc đại trí, đại phước đức được những nhà hào tộc
trong nước quen biết rất nhiều, dân chúng đua nhau dâng lễ cúng
dường, trân cam mỹ vị, thức ăn rất quý, nhiều không xiết kể, còn như
chúng con bé dại không có phước đức, ăn của người những món ăn
ngon lành như thế, đời sau lại sẽ lại đền trả nhân
duyên kia, quả báo chịu khổ cũng như bọn Phiến Đề La. Vì những
lẽ như thế nên chúng con rất lo sợ.
Kìa như năm trăm thầy Tỳ - kheo là bậc
trưởng đức còn không có thể kham nổi bỏ đạo về tục, mà huống chi
chúng con, là người không có trí huệ, cúi xin Phật rủ lòng thương
xót cho chúng con bỏ đạo về nhà, mong khỏi tội khổ, không có khổ
nạn".
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo La
Hầu La rằng: "Con nay sợ tội muốn được về nhà, để cho khỏi khổ đó, việc
ấy không phải. Vì cớ sao? Như có hai người thiếu ăn đói khát, bỗng gặp chủ
nhân dọn đủ thức ăn, béo bùi ngon ngọt, người kia vì bụng đói tham ăn quá
no. Song trong hai người đó, một người có trí, một người ngu si. Người có
trí đó tự biết mình ăn quá no, thân thể nặng nề ấm ách khó
chịu, sợ sanh bệnh khổ, liền đến thầy thuốc hay, khiêm nhường thấp mình,
cúi đầu xin trị giùm bệnh khổ.
Vị lương y liền lấy thứ thuốc Ma
đàn đề cho người kia uống đó, người kia uống rồi liền mửa món ăn bữa trước
trong bụng ra, khi mửa món ăn bữa trước trong bụng ra rồi lại gạt lửa đắp mền nằm
yên, người kia nhân đó mà khỏi bệnh khổ, giữ được tuổi thọ, an ổn khoái
lạc.
Trái lại người không có trí kia
không biết mình ăn quá no, nên ấm ách trong bụng tưởng là ma quỷ bắt,
liền mời đồng bóng làm cho tốn hao tiền của, giết oan sanh mạng cúng tế quỷ
thần, cầu xin mạng, nhưng chỉ luống tốn công vô ích, đồ ăn
trong bụng bữa trước dần dần sanh ra bệnh phong, máu chạy gân chuyển,
đau thắt ruột gan; nhớn đó rồi chết sanh trong địa ngục rồi chịu khổ
vài kiếp, bởi do không có trí vậy".
Phật nói rằng: "La Hầu La con nay sợ
tội về nhà, như người ngu si không có trí kia vậy".
Luận như người nay cầu phước muốn khỏi tội
đó, cần phải khiêm tốn và tinh cần gần gũi Minh sư tu
tập trí huệ; ăn năn tội nghiệp ác, cải bỏ những việc ác đã
qua, sửa làm những việc lành sắp đến. Từ đây dần dần thành
tựu trí huệ, vì thành tựu được trí huệ nên tiêu hết
các tội.
Như Ta trước đã nói oai lực của ánh
sáng mặt trời hay tiêu các chỗ tối. Người tu trí huệ cũng
lại như vậy; nhờ người đời trước có nhân duyên căn lành. Nên nay gặp
được Ta cùng Xá Lợi Phất v.v... Như người kia gặp được vị lương
y có thể cứu bệnh khổ mà được khỏi chết. Con nay vì sao bỏ chỗ
sáng vào chỗ tối?"
Sa-di La Hầu La bạch rằng:
"Lạy Thế Tôn! Theo trí con nghĩ trí huệ chư Phật rộng lớn cũng
như biển cả; còn tâm La Hầu chúng con nhỏ hẹp dụ như chỉ mành, đâu
hay nhận nổi trí huệ của Đức Như Lai".
Phật bảo La Hầu: "Như giọt nước
trời mưa, giọt sau không kịp giọt trước, tuy răng không kịp nhau nhưng có thể lần
đầy mái to, người tu học trí huệ cũng lại như vậy. Ban đầu từ
giọt nhỏ, lần đầy mái to, mái to đầy rồi sang tràn mái khác, lần lựa như vậy, đầy
không biết bao nhiêu mái, thế mới gọi là lợi mình lợi người. Vì lợi mình lợi
người, nên gọi là bậc Đại sĩ như Ta hôm nay vậy".
Bọn ông La Hầu La thảy nghe Phật
nói rồi tâm khai, ý tỏ không còn lo sợ, liền vâng làm đúng như lời Đức Thế
Tôn dạy không có nghi vậy.
Khi bấy giờ, trong hội có vị Thái tử của
vua nước ấy tên là Kỳ Đà, nghe Phật giảng dạy pháp tu Thập thiện, nhân
duyên quả báo không có cùng tận. Liền quỳ gối chắp
tay bạch Đức Thế Tôn rằng: "Xưa Phật cho con thọ
trì Ngũ giới. Nay con muốn xả bỏ để thọ pháp Thập Thiện. Sở
dĩ vì sao?
Vì trong pháp Ngũ giới về giới
rượu rất khó giữ nên con sợ mắc tội".
Đức Thế Tôn bảo rằng: "Khi con
uống rượu có làm việc ác chi chăng?".
Kỳ Đà bạch Phật: "Những nhà
hào cường trong nước thường thường rủ nhau bày ra tiệc rượu, cùng
nhau uống vui vẻ. Vì đặng vui vẻ nên tự không có làm ác vậy. Vì
cớ sao? Vì khi đặng uống rượu nên nghĩ đến giới, vì nghĩ đến giới nên không
có buông lung, thế cho nên uống rượu không có làm ác vậy".
Phật bảo: "Hay thay! Hay thay! Kỳ
Đà ơi! con nay đặng trí huệ phương tiện. Nếu người trong thế
gian được như ngươi hết, thì dù cho uống rượu suốt đời cũng
không có cái ác chi cả. Người tu như thế mới được sanh phước không có tội vậy.
Luận như người tu pháp Thập
thiện kể có hai phép. Một là: Hữu lậu. Hai là: Vô lậu. Người tu
phước hữu lậu, thường hưởng cái quả báo khoái lạc cõi nhơn
thiên. Người tu phước vô lậu, thì được cái quả báo, khỏi khổ sanh
tử thẳng đến Niết - bàn.
Nếu người uống rượu không tạo nghiệp
ác, vì tâm hoan hỷ không khởi ra phiền não; nhân
duyên tâm thiện, nên hưởng cái quả báo thiện. Thái tử giữ Ngũ
giới có lỗi gì ư? Uống rượu mà nghĩ đến giới thì càng thêm nhiều phước,
trước ngươi giữ Ngũ giới, mà bây giờ lại giữ thêm pháp Thập thiện thì công
đức càng hơn cái quả báo Thập thiện vậy".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc bạch
Phật rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Theo như lời Phật nói, khi
tâm hoan hỷ không tạo nghiệp ác, nên gọi là hữu lậu thiện,
việc đó không phải vậy. Vì cớ sao? Vì khi người uống rượu thời tâm hoan hỷ;
vì tâm hoan hỷ nên không khởi ra phiền não, vì không phiền
não nên không làm não hại, vì không làm não hại cho ai
nên ba nghiệp được thanh tịnh, ba đường nghiệp được trong sạch ấy
là vô lậu nghiệp.
Bạch Thế Tôn! Ý con nhớ hồi trước con
dạo đi săn chơi quên đem người đầu bếp, lúc vào trong núi sâu biết đói muốn ăn.
Kẻ tả hữu đáp rằng: "Hồi mời vua đi không thấy truyền lệnh cho
người đầu bếp theo. Nên giờ này không có cơm ăn. Thưa Thế tôn! Con nghe lời ấy
rồi liền sải ngựa về cung, truyền bảo dọn cơm, kẻ đầu bếp nhà vua tên là
Tu Ca La.
Tu Ca La thưa rằng: "Hiện
giờ không có cơm, nay mới đương nấu". Lúc con đói quá giận không còn nghĩ
gì; bực tức mê cuồng ra lệnh các quan đem chém người đầu bếp.
Các quan thấy vua ra lệnh, liền cùng
nhau bàn rằng: "Chọn khắp trong nước, chỉ có một người này trung
lương ngay thẳng, nay nếu giết đó thì không còn ai có thể làm trù giám cho
vua và làm cho vừa ý vua".
Khi ấy, bà Mạt Lợi Phu
nhân nghe vua ra lệnh giết Tu Ca La, lòng rất thương tiếc, biết
vua vì đói quá, liền ra lệnh sắm đủ rượu qúy thịt ngon, tắm gội hương hoa,
trang sức thân thể và đem các kỹ nữ đi đến chỗ vua.
Con thấy Hoàng hậu trau giồi tốt đẹp và đem
theo kỹ nữ với một cỗ rượu thịt ngon đến, con liền hết giận. Vì cớ sao? Vì
nàng Mạt Lợi Phu nhân là người giữ năm giới cấm của Phật
không uống rượu đã lâu. Hôm nay bỗng nhiên tâm con đương giận, mà lại đem
rượu thịt đến, cùng nhau ăn uống, vui chơi để cho thỏa
lòng giận dủi.
Con liền cùng với Phu nhân uống
rượu ăn thịt đàn hát kỹ nhạc hoan hỷ khoái lạc, nên
lòng giận tiêu hết, Hoàng hậu biết con không còn ý giận nữa, bèn sai Huỳnh môn
truyền lệnh con bảo các ngoại quan đừng giết trù giám.
Các quan liền vâng giáo chỉ. Đến sáng
ngày sau con rất ăn năn tự trách rầu lo không ăn, dung
nhan tiều tụy. Phu nhân thấy vậy hỏi con: "Vì sao lo buồn
hay có bệnh chi chăng?"
Con nói: "Ngày hôm qua, ta nhơn vì
cái lửa đói ép ngặt, vì tâm bực tức giết Tu Ca La, nhơn Trẫm tự
xét trong nước đều không có người làm giám trù cho Trẫm như Tu Ca La. Vì
những lẽ ấy nên Trẫm lo sầu hối hận".
Phu nhân cười nói rằng: "Người
kia còn sống, xin vua chớ buồn". Con lại hỏi rằng: "Như thế là thật,
hay là nói chơi?"
Phu nhân đáp rằng: "Thật chớ
không láo dối vậy". Con liền sai kẻ tả hữu kêu trù giám đến, sứ
giả đi gọi trong giây phút đem đến, con rất vui mừng không còn uất
hận".
Vua bạch Phật rằng: "Thưa
Đức Thế Tôn! Mạt Lợi Phu nhân, giữ năm giới của Phật, mỗi tháng
lục trai, giữ Ngũ giới trọn đời, nay trong một ngày, đã phạm giới ẩm
tửu, giới vọng ngữ, hai giới và trong giới Bát quan trai dã phạm
sáu giới, việc này làm sao? Chỗ phạm tội giới kia nặng, hay nhẹ?".
Thế Tôn đáp rằng: "Phạm giới
như thế được nhiều công đức, không có tội vậy. Vì cớ sao? Vì có sự lợi
ích như Ta trước đã nói. Luận như người tu thiện kể có hai món.
Một là: Hữu lậu thiện; hai là: Vô lậu thiện. Bà Mạt Lợi Phu
nhân, chỗ phạm giới đó là Hữu lậu thiện. Còn không phạm giới đó
là Vô lậu thiện.
Những người y ngữ bất y nghĩa đó là chỗ phá
giới tu thiện là Hữu lậu thiện; người người y nghĩa bất y ngữ mà
tâm tu thiện gọi là Vô lậu thiện".
Vua bạch Phật rằng: "Theo
như lời của Đức Thế Tôn nói: Nàng Mạc Lợi Phu nhân uống rượu phá
giới, không khởi ra tâm ác, mà có công đức không mắc tội quả
báo ấy; thì tất cả nhân dây thảy đều làm được. Vì cớ sao?
Con nhớ trước đây trong thành Xá Vệ,
có những nhà hào tộc, có Công chúa giòng Sát Lợi, nhân gây kình chút
ít, lần đến oán thù to, mỗi người bày mưu đem binh đánh nhau, hai nhà đều
là nhà hào tộc trong nước, lại cũng là bà con thân thích chớ chẳng
phải người nào xa lạ, thế mà chiến đấu mãi không nghe lời con can
gián nên con rất buồn.
Con tự nhớ rằng:"Hồi con còn
làm Thái tử, có quan đại thần của đức Tiên vương tên là Đề Di
La. Ỷ thế tông môn phú quý hào cường, thấy con khinh dể; thường trêu
ghẹo con còn hơn loại súc sanh; đương khi giận dủi bực tức không
kể gì nữa ý muốn giết đi, nhưng mà không đủ sức, mới vào
tâu với vua cha, mà ngài cũng không xét cho. Oán hận đầy ruột không
biết làm sao được. Vì duyên cớ ấy nên con thường bỏ sự ăn uống sầu
muộn áo não.
Khi bấy giờ, Thái hậu thấy
con sầu khổ, nhiều phen khuyên con mà con buồn mãi không nguôi. Trong khi ấy Thái
hậu nặng tình thương con, bèn sai sứ nhơn cầu kiếm rượu tốt đem
về khuyên con uống.
Con liền bạch với mẹ con rằng:
"Tiên tổ nhà ta nói nhau theo Bà-la-môn thờ trời Na La Diên. Nếu nay
uống rượu e sợ trời giận và bị Bà-la-môn quở phạt. Đương khi Thái hậu thấy
con nguy hiểm tánh mạng, trong lúc đêm khuya canh vắng đóng hết các cửa cung
không cho người ngoài như Huỳnh môn, tì nữ được biết.
Thái hậu khuyên con rằng: Luận như
đã là Thiên thần thì phải có tâm từ bi cứu khổ tất
cả. Các thầy Bà-la-môn cũng phải như vậy, con nay sầu khổ, lỡ chết mất
mạng, Thiên thần đâu hay cứu được mạng con chăng?
Chi bằng uống thuốc tiêu
tan ưu hoạn, được toàn thân mạng, các thầy Bà-la-môn kia, chưa đặng Thiên
nhãn làm gì biết được sự ẩn mật của con sao? Thúc giục đôi ba
phen, túng thế con phải uống đó, đã uống rượu rồi quên mất cái tâm sầu hận.
Thái hậu thấy con mặt mày tươi tỉnh,
tâm rất vui mừng, liền đòi cung nữ đàn hát kỹ nhạc, trong
ba bảy ngày hưởng vui ngũ dục, bao nhiêu lòng phẩn hận từ đây đều hết.
Con nghĩ như vầy rồi liền sai
trung thần bảo sắm rượu ngon và đủ mâm cỗ, lại ra lệnh truyền những nhà hào tộc
trong nước, quần thần, sĩ dân, thảy đều đến nhóm: muốn có chỗ bàn một việc lớn,
trong nước các quan đến nhóm hai bên quyến thuộc, mỗi bên đều có hơn năm
trăm người, cùng đòi đến nhóm ở trên điện vua trang nghiêm khoái lạc.
Vua lại sai trung thần, sắm chén bằng ngọc lưu
ly, mỗi chén đựng được ba thưng, trong mỗi chén ngọc đựng đày rượu ngon. Con liền
đối ở trước công chúng bưng lên một chén nói rằng:
"Nay bàn việc lớn, tôi thiết tưởng
những người ngồi trong hội đây, ai cũng một lòng. Vậy thì nay mỗi người
cũng phải uống một chén thuốc bổ cam lồ này, rồi sau sẽ bàn việc".
Ai nấy đều nói rằng: "Xin vâng
mạng Đại vương". Con liền sai quan hầu đàn hát kỹ nhạc, mọi người được
uống rượu và nghe âm nhạc, nên tâm rất vui mừng, quên mất cừu hận,
phấn chấn không còn ngại gì nữa.
Vua lại nâng chén, nói với các quan rằng:
"Kẻ sĩ phu này tu đức đã trải qua nhiều kiếp,
tôn thờ Thánh giáo không dám sai lầm. Quý ngài vì sao nhơn việc
nhỏ mà tức giận đánh nhau như thế? Nếu không nhịn nhau, thì
e cho nước mất nhà tan,vì thế nên lần này tôi lấy lòng can
gián xin quý ngài đừng đánh nhau nữa".
Các quan tâu rằng: "Kính vâng không
dám trái mạng". Nhân đó được hòa bình.
Vua bạch Phật rằng: "Thưa
Thế Tôn! Người khởi ra việc tranh giành không nhân nơi uống rượu, trái
lại, nhân đặng uống rượu mà tiêu hết cái tâm giận tức tranh giành mà
đặng hòa bình. Đâu không nhờ công năng uống rượu ư?
Lại nữa Đức Thế Tôn! Con xét thấy
trong thế gian những người bần cùng, tiểu nhân, nô khách, tỳ nữ,
mọi rợ, hoặc nhân ngày khánh tiết, hoặc ở nơi tiệm rượu; nhóm hội ăn
uống, vì tâm vui vẻ không đợi người dạy, mỗi người biết nhảy múa. Khi
chưa được uống rượu thì không có việc ấy.
Thế nên biết rằng người thân uống rượu
mà sanh vui vẻ. Khi tâm vui vẻ không sanh niệm ác, vì không sanh
ra niệm ác thế nên mới gọi là thiện tâm; nhân
duyên tâm thiện nên được báo thiện.
Lại nữa thưa Đức Thế Tôn! Kìa như loài
nhĩ hầu đặng uống rượu còn hay đứng dậy nhảy múa, huống chư người đời.
Theo như lời Đức Thế
Tôn nói, làm lành được quả báo lành; làm ác thì mắc quả
báo ác. Như người trong thế gian, nhờ đời trước làm việc bố
thí nhân duyên phước đức, nên nay được giàu to. Kẻ nghèo đến xin, lại tham
tiếc không cho; vì cái nhân tham tiếc nên sẽ mắc quả
báo ngạ quỷ.
Hoặc có người đời, hoặc nam, hoặc nữ, được thân
hình tốt đẹp. Con trai thì được con gái yêu; con gái đẹp thì được con trai
yêu. Nếu có người dùng sức mạnh ngăn cấm nam, nữ không cho hội họp.
Vì không đặng hiệp nên sanh ra ưu khổ, những tội đây sẽ quy về ai?
Mạt Lợi Phu nhân đều do đời trước có tâm tốt bố thí cho người. Cho nên nay được báo thân tốt đẹp. Vì sao Đức Thế Tôn bắt giữ Ngũ giới; mỗi tháng ăn lục trai, không đặng trau giồi hương hoa phấn sáp; lại cũng không cho đàn hát kỹ nhạc, và cũng không cho gần gũi với chồng yêu, tấm thân tốt đẹp để làm gì, luống mất không công. Đâu chẳng phải khổ ư?".
Phật bảo vua rằng: "Đại vương
nạn như thế, không phải là không hay. Nhưng bà Mạt Lợi Phu nhân khi
còn tuổi trẻ; nếu Ta không dạy cho giới pháp tu trí tuệ đó,
thì làm sao sẽ có công đức ngày nay; đã hay độ đặng mình lại độ
thân vua. Vậy chớ công đức ấy sẽ quy về ai?
Bà Mạt Lợi Phu nhân, vì nghe Ta dạy tu
hành đúng pháp. Cho nên ngày nay thành tựu trí huệ, mới được
giải thoát vậy.
Lại nữa này Đại vương! Thí như người đời,
trong gia đình chỉ có một đứa con, vì muốn cho thành người, nên lúc
còn bé đem đến trường học. Nhờ thầy dạy bảo văn thơ, nghệ thuật, nhân
cách, lễ nghĩa, theo phép của nhà trường đều có kỷ luật, quở, trách, đánh,
phạt, hạn chế ăn uống, không cho ngủ nhiều, ra vào đi lại, không
sái tiết độ.
Những người có trái phạm tùy tội nặng nhẹ,
xét mà hành phạt. Vì trẻ sợ đòn, chuyên tâm lo học, đến khi tuổi
lớn, tài cao, học rộng, việc gì cũng biết, lại đem cái biết ấy dạy sang
người khác. Bà Mạt Lợi Phu nhân, vâng giữ trai giới cũng giống
như thế.
Lại nữa này Đại vương! Ví
như Phú Lầu Na vì tâm ganh ghét nên cắt đứt ân ái, từ cha
mẹ bỏ lìa vợ con. Vào núi tu học, mình mặc áo bằng cỏ, chịu lạnh,
chịu khổ, tự lập lời thệ rằng: "Quyết định đọc thuộc chín mươi
sáu món kinh, thơ, ký luận đều được thông suốt. Nếu không được
như vậy thời không trở về cùng cha mẹ thấy nhau".
Trọn hai mươi năm tất cả thông suốt. Trở
về thành Vương Xá đầu đội lửa đuốc, bụng nịch tiếng đồng, đi
trên bờ ruộng tự xướng to lên rằng: "Mình là người Nhứt Thiết trí". Rồi
đến Ta hỏi rằng: "Này Cù Đàm Sa môn! Có biết tôi là ai
không?".
Ta nói: Người là người ngu si. Rồi
nói bài tụng rằng:
Nếu là người có trí tuệ,
Không khoe mình ai cũng biết.
Như thế là kẻ đa văn,
Như mặt trời soi trong thế gian.
Kẻ vừa nghe chút ít,
Tự khoe mình là lớn.
Như mù cầm đuốc soi,
Chiếu ai chớ mình không sáng.
Khi bấy giờ, Phú Lầu Na nghe Ta nói lời ấy
rồi bỗng nhiên tâm ngộ, liền bỏ đuốc cổi đồng, năm vóc gieo sát
đất, hổ thẹn xin lỗi. Vì do ông là người đa văn, trí hụê các
căn thông lợi, cho nên trong khi lạy xuống chưa đứng dậy mà dã dữt
đặng phiền não trong ba cõi được quả A La Hán. Sức trí
huệ đó thí cũng như câu móc điều phục con voi, voi tùy
theo móc mà đi.
Đại vương phải biết rằng: Luận như
người tập đọc, đều nhờ ngăn cấm năm tình, mới được thông suốt không
chỗ ngăn ngại. Vì chỗ không ngăn ngăn ngại nên gọi là Vô ngại trí. Vô
ngại trí ấy đủ có bốn biện tài vậy. Nay Phú Lầu Na đủ có bốn
món biện tài, đều nhờ khiêm tốn cần khổ học tập mới được. Thế
cho nên Ta nói: Luận như người huệ giải có bảy món của. Sao gọi là bảy?
Một là: Tín tài.
Hai là: Tinh tấn.
Ba là: Trì giới
Bốn là: Tàm quý.
Năm là: Đa văn.
Sáu là: Hành xả.
Bảy là: Định huệ.
Ấy là bảy món của; bà Mạt Lợi Phu
nhân có đủ bảy món của ấy.
Đại vương phải biết, Mạt Lợi
Phu nhân tuy là thân nữ, mà tài cao trí rộng, chẳng phải như người phàm, đều
nhờ hồi còn trẻ đến giời, giữ gìn cẩn thận thân, khẩu, ý
nghiệp, nhất tâm chuyên niệm, tu tập trí huệ, vì cái sức trí
huệ nên gọi là sức giải thoát; rồi đem trí tuệ bày tỏ khắp
trong thiên hạ.
Khi bấy giờ, Đức Thế Tôn, nhân
Sa-di La Hầu La và cả đại chúng mà nói bài tụng rằng:
Đa văn là chim cánh vàng
Oai thế võ lực mạnh
Vân là kho hành bảo
Ở đâu lợi ích đấy
Văn là cầu cống to
Cứu khỏi mọi khổ ách
Văn là thuyền lái lớn
Đưa qua biển sanh tử
Đa văn chí được sáng
Vì sáng trí huệ thêm
Trí huệ hiểu nghĩa rộng
Thấy nghe tu đúng pháp
Đa văn trừ được não
Hay dùng định làm vui
Khéo giải pháp cam lồ
Từ đó được Niết bàn
Văn là biết pháp luật
Hết nghi thấy được chánh
Nhờ văn bỏ phi pháp
Đi đến chỗ bất tử
Tiên nhân kính thờ văn
Chư Thiên lại cũng thế
Giữ tâm không buông lung
Đa văn thành Thánh trí
Trí huệ trừ lo giận
Cũng dẹp thói tà phi
Người muốn cầu yên ổn
Phải tôn thờ người trí
Mù từ đây được mắt
Như trong tối được đuốc,
Mở lối cho người đời
Như người sáng dắt người tối
Thế là bỏ ngu si
Ly, mạn, hào, phú, lạc
Chăm học thờ Minh sư
Ấy gọi là người đức.
Khi bấy giờ Đức Thế
Tôn nói bài kệ ấy rồi bảo vua rằng: "Này Đại vương!
Nay Đại vương có phước đức thông suốt nghĩa rộng, là đều
bởi đời trước thân cận bậc Minh sư khiêm tốn, cầu khẩn, hầu
hạ học tập mới được nhân duyên quả báo, nay được
làm vua; trí huệ thông suốt tùy nghi tiếp dắt trong thế
gian ít có.
Thế cho nên Ta nói Bát
Nhã trí huệ có bốn nghĩa, thì đủ biết rằng: Người cầu đạo tam
thừa phải học pháp Bát Nhã. Muốn lìa khỏi cái khổ hoạn trong tam
đồ bát nạn, muốn hưởng quả báo khoái lạc cõi nhơn thiên.
Nói tóm lại là, muốn cầu tất cả phước đức đều phải tu
học trí huệ phương tiện.
Như Ta trước đã nói: Vua A Dật Đa,
vì nhờ sức cần khổ học tập trí huệ, tuy trong khi lỡ làm ác
mà phải sanh trong đường ác thú, nhưng thường nhớ lại túc mạng, vì nhớ
được túc mạng nên bỏ dữ làm lành, chóng được giải thoát, cảm
động đến chư Thiên tiếp tế cúng dường, dùng sức trí
huệ làm thầy chư Thiên. Do nhân duyên ấy, nên Ta
nói Bát Nhã có đủ bốn nghĩa vậy".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc nghe
Phật giảng dạy trí huệ phương tiện, công đức nhân duyên, tất
cả vui mừng. Thái tử Kỳ Đà, Phu nhân, Thái hậu, quần thần,
sĩ dân, tất cả đại chúng không ai mà không tỏ ngộ, mỗi người đều cung
kỉnh, vì Phật làm lễ lại ngồi như cũ.
Vua lại vòng tay bạch Phật rằng:
"Theo như lời Phật nói, người đời tu thiện kể có hai món. Một
là: Hữu lậu thiện. Hai là: Vô lậu thiện. Hữu lậu, Vô lậu hai
nghĩa cùng quy về một. Vì sao Đức Thế Tôn lại nói khác nhau
ư?".
Phật bảo vua rằng: "Người có
hai hạng. Một là người lợi căn. Hai là người độn căn; mà người độn
căn có hai món thiện, còn người lợi căn thì không nói hai vậy. Sở
dĩ vì sao? Ví như các nguồn nước chảy cũng về một biển. Còn người độn
căn bị các căn ngăn lấp, thế cho nên vì nói các pháp phân
biệt cho nghe".
Khi bấy giờ, Thái tử vua nước ấy
là Kỳ Đà bạch Phật: "Thưa Đức Thế Tôn, giới pháp Thập
thiện có nhiều nghĩa hay là cũng đồng một nghĩa. Pháp Thập thiện về
giới vọng ngữ một hay nhiều. Nếu chỉ một nghĩa, chắc con
không giữ gìn được, còn nhiều nghĩa xin Phật nói cho".
Phật bảo Kỳ Đà rằng: "Vọng ngữ
có hai, một là nặng, hai là nhẹ. Sao gọi là nặng? Nghĩa là người thọ giới rồi
mà không tu trí huệ, ngu si tối dốt, không biết giáo
hóa làm Phật pháp được hưng thịnh thêm lên. Vì những lẽ ấy người ta
khinh dể, không được của cúng dường bần cùng khốn khổ; vì không được cúng
dường nên ngoài thân hiện tướng tinh tấn, mà trong tâm làm việc
tà trược.
Cùng nhau tuyên truyền đến nói mọi rằng
Tỳ-kheo kia, khổ hạn, tinh tấn, đặng cảnh giới thiền, hoặc nói
thấy Phật, thấy rồng, thấy quỷ. Những người như thế gọi là đại vọng ngữ.
Người phạm tội đây đọa vào trong địa ngục A tỳ.
Lại cũng có tội vọng ngữ hay
làm thiệt hại người, phá hoại nhà người; lại có tội vọng
ngữ, làm trái mất kỳ hẹn khiến cho người tức giận, như vậy gọi là tội hạ vọng
ngữ, những người làm như thế gọi là phạm giới, đọa trong tiểu ngục. Còn
bao nhiêu thứ vọng ngữ như là nói chơi và những lý đáng giấu, sự đáng
cấm hoặc có nói không, hoặc không có nói, không phạm giới vậy".
Thái tử Kỳ Đà nghe lời nói ấy
rồi, liền ở trước Phật thọ pháp Thập thiện và bạch Phật rằng:
"Thưa Thế Tôn! Đệ tử ngày nay nghi hối đã trừ, phát
tâm Tam Miệu Tam Bồ đề xin Phật chứng biết".
Phật nói: "Hay thay! Ngươi nay đã
biết thế, Ta rất vui mừng".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc bạch
với Phật rằng: "Theo như lời Phật đã nói, thì mười phương các vị Hiền
Thánh rõ thấu nhân duyên quả báo của tất cả chúng
sanh. Vậy thì phụ vương con trước kia tu trì giới cấm của ngoại
đạo, không uống rượu và không ăn hành, tỏi, ngũ vị tân; kính thờ Phạm
Thiên và thờ mặt nhật, nguyệt, thủy, hỏa, thường làm việc bố
thí để cầu sanh về cõi trời Phạm Thiên. Mỗi năm thường
dùng một ngàn con bò sữa cúng dường cho các thầy Bà-la-môn.
Kể bốn mươi năm, có bốn vạn con bò, thỉnh
các thầy Bà-la-môn ăn sữa, tô lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ các vị, công
đức như thế sẽ sanh về cõi trời nào? Cúi xin Phật dủ
lòng thương xót dạy bảo, khiến cho những người tu hành ai
cũng được nghe được biết".
Phật bảo vua rằng: "Quả báo của
Tiên Vương, nay ở trong địa ngục. Sở dĩ vì sao? Vì rằng sanh ra
không gặp thiện thời, không gặp thiện hữu và không gặp thiện phương
tiện, tuy tu các công đức mà không đặng khỏi tội. Nhưng mà
cái công đức bố thí kia không mất đi đâu, chừng nào tội
hết mới đặng hưởng phước".
Đại vương phải biết: "Luận như
người tu phước không chuộc được tội, vì không chuộc được tội
nên cần phải có phương tiện mới chuộc được tội".
Phương tiện là gì? Nghĩa là
ông Thiện tri thức. Sao gọi là thiện hữu? Nghĩa là người chánh kiến ấy
là thiện hữu. Thường đem lời chánh điều phục tâm mình.
Chánh giáo là gì? Nghĩa là dạy quán
pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và mười hai nhân
duyên trói buộc đường sanh tử. Và tu pháp Tứ Chơn đế;
thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, thực hành sáu pháp
Ba La Mật và Tứ Vô Lượng Tâm, thế mới gọi là phương tiện điều
phục các căn, vì điều phục các căn nên định huệ được thành
tựu, vì định huệ được thành tựu nên tâm mình được ngay thẳng,
vì tâm mình được ngay thẳng nên sanh ra tinh tấn. Vì tâm tinh tấn nên
hay sanh ra sự giữ giới, vì giữ giới được hoàn toàn nên định
huệ sáng tỏ, vì huệ được sáng tỏ nên làm đủ muôn hạnh thông
suốt không ngăn ngại, vì muôn hạnh thông suốt không ngăn ngại
cho nên kêu là giải thoát, mà cái tâm giải thoát đó tức
là Niết bàn vậy. Thế cho nên mới kêu là Thiện tri thức vậy.
Đại vương phải biết: Minh sư dắt dẫn
thật là một nhân duyên lớn, không nên khinh vậy. Đại
vương nay được gặp Hiền Thánh, đều nhờ nhân duyên quả
báo đời trước, nên đời nay nghe pháp tin hiểu, lại có tài
năng làm cho người tin hiểu. Thế nên Ta nói người sáng khó gặp, như có một
người không ai sánh kịp, người đó sanh ra chỗ nào, thân tộc nhờ phước,
thế nên phải tu Bát Nhã trí huệ".
Vua bạch Phật rằng: "Thưa
Đức Thế Tôn! Con nghe Thế Tôn nói trí huệ phương tiện, tâm
con đèu được thông suốt, theo như lời của Đức Thế Tôn đã
nói họa phước chẳng đồng, nhưng mà không biết Tiên Đế của con, có
cái ác nghiệp chi và chịu khổ báo gì?".
Phật bảo vua rằng:"Tiên đế của Đại
vương có sáu món tội. Sao gọi là sáu món tội?
Một tội là: Ngạo mạn, nhơ bẩn, không luận việc nhỏ hay lớn, đánh phạt ngang tàng, vì không nhẫn nhịn vậy.
Hai tội là: Tham nhận của báu, xử đoán không công, làm cho thiên hạ kêu rêu oán hận.
Ba tội là: Vui chơi, săn bắn làm khốn khổ nhân dân, tàn sát chúng sanh những loài tiếc mạng sống.
Bốn tội là: Giam cầm cung nữ, không đặng vừa ý, chịu nhiều khổ não.
Năm tội là: Đắm mê nữ sắc, mới chuộng cũ vong, ăn ở bất bình, sanh ra oán hận.
Sáu tội là: Sợ các thầy Bà-la-môn, ăn vụng rượu thịt,
hành, tỏi, ngũ vị tân; sợ kia quở trách, dối trá du bợ, ấy
gọi là sáu việc tội nghiệp nhân duyên sanh trong địa ngục.
Vua bạch Phật rằng: "Nếu
đã như vậy đó thì khi Phật chưa ra đời. Đệ tử này cũng có tội như thế,
vậy bây giờ phải làm sao tu pháp Thập thiện cho được thành
tựu không ngăn ngại ư?".
Phật bảo vua rằng: "Như Ta trước
đã nói, khi ánh mặt trời mọc ra thì các tối tiêu hết hay là còn tối
chăng?"
Vua bạch Phật rằng: "Thưa
Đức Thế Tôn! Ánh sáng của đèn còn có thể diệt được tối tăm, huống
chi oai thế của ánh sáng mặt trời rất mạnh vậy".
Phật nói rằng: "Nay vua có phước
đức nghe Ta nói pháp thành tựu trí huệ, ví như ánh
sáng mặt trời tiêu diệt hết các sự tối tăm, không
còn tội lỗi vậy".
Vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng:
"Cha con tôn thờ những thầy Bà-la-môn tinh tấn trí huệ, tu
tập khổ hạnh, là vì cầu phước không tiếc thân mạng, hoặc có khi gieo
mình xuống núi, năm món nóng háp thân, hoặc bỏ ăn uống để cầu sanh về
cõi Phạm Thiên hoặc chất củi thiêu sống thân mình, hoặc co giò hả miệng
hớp ánh sáng mặt trời, hoặc leo lên cây cao, lấy dây buộc chân rồi thòng đầu
xuống, hoặc nằm trên chông gai, rinh đá đè lên bụng có như vậy v.v... biết
bao là khổ hạnh. Nhưng mà không biết nhân duyên phước đức,
công tu khổ hạnh sẽ về chỗ nào?"
Phật đáp rằng: "Như Ta đã nói
trước, làm khổ chịu quả báo khổ, làm vui được quả báo vui,
vua không nghe sao?".
Vua nói rằng: "Thưa Đức Thế Tôn!
Như vậy thời Thế Tôn bắt các hàng đệ tử phải trì cấm
giới đâu chẳng phải là khổ ư? Vì sao? Vì luận như người trong lúc đói
không được ăn liền, đâm ra phiền não, tức giận nổi lộn không còn biết chi
là chi, chỉ muốn làm hại giết Tu Ca la, những việc như thế nên chịu khổ
nhiều đời, đâu chẳng phải là ác sao?".
Phật bảo vua rằng: "Ta trước sở
dĩ hạn chế cho ăn giữa giờ ngọ ấy là vì hai lẽ. Một là: Vì
cá Tỳ - kheo bỏ pháp ngoại đạo vào trong pháp Ta xuất
gia tu hành, vì tâm chịu đói khát, khổ hạnh trước đã quen.
Hai là: Các ông đệ tử đặng món ăn ngon lành tham ăn quá no, vì ăn không tiết độ nên sanh ra các bệnh. Thế nên
Ta hạn chế sự ăn, chẳng phải là vì chịu đói chịu khổ, để cầu phước
đức vậy.
Lại nữa có giờ khắc, đó là vì Ta thấy các
thầy Tỳ - kheo, ngày đêm nghiễu nghện đi xin ăn, ăn không có giờ khắc, làm
cho bọn ngoại đạo nó chê trách và nói rằng:"Cù
Đàm Sa môn tự nói đạo mình là tinh tấn, mà sao không bằng
pháp ngoại đạo. Thế nên Ta bắt ăn có giờ, chớ chẳng phải bắt chịu đói chịu
khổ để cầu phước vậy.
Nói tóm lại là Ta bắt giữ cấm
giới, chính vì người ngu si không huệ phương tiện, chớ chẳng
phải là hạng người trí huệ biết rõ thời nghi vậy.
Như Ta trước đã nói:Bát Nhã trí huệ tức
là sức giải thoát chỗ đó là chỗ thực hành của bậc Thánh
Hiền mà người trí cần phải vâng làm".
Vua nghe lời ấy rồi càng
thêm hoan hỷ liền đứng dậy cung kỉnh, vì Phật làm lễ, tất cả đại
chúng cũng đồng như vậy.
PHẦN LƯU THÔNG
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc quỳ
gối chắp tay bạch Phật rằng: "Thưa Đức Thế Tôn! Nay
trong đại chúng đã nghe Phật giảng nói, mối nghi tan sạch. Ví cũng
như ánh sáng mặt trời tiêu hết các tối tăm, thấy được tỏ
rõ. Công đức như đây, ân kia khó đền. Đệ tử chúng con làm
cách nào thi thiết cúng dường, để đền cái ơn nặng Đức Thế
Tôn ngày nay vậy".
Phật bảo vua và cả trong đại
chúng rằng: "Giáo pháp cam lồ công kia khó trả, dù cho có
người ở trong hằng sa kiếp, tận tâm phụng sự Phật Pháp
Tăng áo mặc, ăn uống, đồ nằm, tật bệnh, thuốc thang, thì ý vua nghĩ
sao, phước kia nhiều chăng?".
Vua nói rằng: "Dạ nhiều lắm, không
có thể so lường được".
Phật bảo vua rằng: "Giáo
pháp cam lồ đây, tinh diệu khó lường, cứu độ tất cả bất kỳ
việc lớn hay nhỏ. Chẳng phải dùng cái sức phước đức cõi Nhơn Thiên mà
có thể trả được vậy. Nếu muốn trả chỉ có một việc, có thể trả ơn Phật
được".
Sao là một việc? Nghĩa là thường
dùng tâm từ đem cái chỗ của mình hiểu biết tất cả thiện
pháp đó, lần lựa khai hóa nhẫn đến một người, cũng làm cho họ tín
tâm thành tựu trí huệ. Cứ thế rồi làn đến vô cùng vô tận. Ví
như một ngọn đèn, mồi ra không biết bao nhiêu ngọn đèn, người tu
như thế mới gọi là học trò trả ơn nặng cho thầy.
Đại vương phải biết. Muốn trả
ơn thầy giải thoát cho mình đó, thì mình lại phải đem trí
huệ giải thoát cho chúng sanh, người tu như vậy thời chẳng những cúng
dường trả ơn cho thầy mà thôi, mà cũng là cúng dường ba đời chư
Phật vậy".
Vua lại vòng tay bạch Phật rằng:
"Thưa Đức Thế Tôn! Con xin tuyên truyền giáo pháp khai ngộ quần
sanh, cầu mong đi về con đường chánh kiến tu tập Thánh đạo,
thì cái phước đó làm sao? Cúi xin Phật dủ lòng từ thương xót, khai dạy
cho con và tất cả chúng sanh".
Phật bảo vua rằng: "Hoặc
có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào theo thầy nghe
pháp một câu, một nghĩa, rồi lần lựa giáo hóa thêm ra, cho
đến một người nào chưa tin thì khiến cho họ tin, người nào chưa hiểu khiến
cho họ hiểu, cái công đức như đây không lường không ngằn, chẳng phải phàm
phu mà có thể biết được".
Này Đại vương! Giả sử như có
người ở trong ngàn năm, dùng thức ăn thuốc uống, y phục quý
báu cung kính cúng dường Phật, Pháp và Thánh Tăng, phước đức kia
nhiều chăng?"
Vua nói rằng: "Dạ nhiều lắm, không
thể cân lường".
Phật bảo: "Này Đại vương! Nếu
có Thiện nam tử, người Thiện nữ nào, theo thầy nghe thuyết Chánh
giáo của Phật, rồi lần lựa giáo hóa thêm ra cho đến một
người nào cũng khiến cho họ tin hiểu, thì cái chỗ được phước còn hơn muôn ngàn ức
bội, đối với người bố thí không bằng một phần. Vì sao? Vì
cái công đức thuyết pháp thật là không lường vậy".
Khi bấy giờ, Phật bảo ông A
Nan: "Này A Nan! Như giáo pháp đây, ông phải tinh cần, tuyền truyền
giáo hóa, tất cả nhân dân, thì phước đức không lường.
Này A Nan! Ngày nay Ta dùng pháp mầu Vô
thượng tuyệt đối đây giao phó cho ông. Vậy ông phải tuyên
bố, giáo hóa đi độ khắp tất cả chúng sanh, ấy là cúng dường tất
cả chư Phật đó vậy".
Ông A nan lại vòng tay bạch với Đức
Thế Tôn rằng: "Phật giao cho con Kinh này, mà không biết tên Kinh này
là tên chi?".
Phật bảo ông A Nan rằng:
"Kinh này tên là Kinh "Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên". Vậy phải cần
tu và lưu hành".
Khi bấy giờ, vua Ba Tư Nặc, Thái
tử Kỳ Đà, Phu nhân, Hậu cung, bốn bộ đệ tử Thích, Phạm, Chư
Thiên, Bát Bộ, Long Thần, tám mươi muôn người, nghe Phật giảng nói đều
rất vui mừng, mỗi người đều phát tâm trước ngôi Tam Bảo, lễ
Phật rồi lui về, đúng như pháp mà vâng làm.
PHẬT NÓI KINH NHÂN DUYÊN CHƯA TỪNG CÓ
HẾT
LỜI PHỤ
Kinh này các vị Hiền Thánh hồi
xưa cũng thường thọ trì đọc tụng, cũng như Kinh Tam Bảo, Di
Đà, Hồng Danh v.v... mà quý vị thiện nam tín nữ đọc tụng bây
giờ.
Theo tiếng gọi Kinh Di
Đà Hồng Danh, mà gọi rằng Kinh Tam Bảo không phải là không đúng:
nhưng cần phải hiểu rộng, kinh nào mà của Đức Phật nói ra,
các vị Hiền Thánh phụng hành, đều gọi là Kinh Tam Bảo: Phật,
Pháp và Tăng vậy.
Quý vị muốn tụng Kinh này, trước
cũng "Khai Kinh" như thường, trừ bài giới thiệu và bài tựa
tụng thôi.
Và khi tụng hết quyển, đọc bài kệ thâu
Kinh như vầy:
NGUYỆN
Trời rồng tám bộ người cùng Thánh,
Đến nghe giới pháp phát
tâm thành;
Ủng hộ Phật pháp cho miên
viễn,
Đồng cùng tu học pháp
Như Lai.
Bao nhiêu vị đến đây nghe pháp,
Hoặc ở dưới đất hoặc trên
không;
Đối với thế
gian lòng thương xót,
Đêm ngày nương ở hội pháp tràng.
Xin cầu thế giới thường an
ổn,
Trí cao phước rộng độ quần sanh;
Bao nhiêu tội nghiệp tiêu dứt
hết,
Xa lìa khổ não đến Niết
Bàn.
Thường lấy Giới hương thoa dồi
thể,
Hằng gìn áo Định để che thân;
Hoa mầu Chánh trí khắp trang
nghiêm,
Tùy ở chỗ nào thường an lạc.
NAM MÔ HỘ PHÁP CHƯ TÔN BỒ TÁT MA HA TÁT
Comments
Post a Comment