KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN
Dịch giả:
Thích Chính Tiến - Thích Quảng Độ
PL. 2506 - 1962
PHẨM PHÁT TÂM BỒ ĐỀ THỨ TƯ
Bấy giờ ở trong hội, có một vị Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Hỷ Vương, liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở
vai áo bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chấp tay ngưỡng bạch đức
Như Lai rằng:
-Bồ Tát phải tri ân báo ân như
thế nào?
Phật bảo Bồ Tát Hỷ Vương:
-Thiện nam tử! Ông hãy nghe cho kỹ: Bồ
Tát muốn tri ân báo ân nên phải phát tâm Vô thượng
Chính đẳng Chính giác, và dạy bảo tất cả chúng sinh phát
tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bồ Tát Hỷ Vương hỏi:
-Nếu phát tâm Bồ Đề, sẽ phải phát như thế nào? Và nhân đâu mà có thể
phát được?
Phật nói:
-Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát,
khi thoạt mới phát tâm Bồ Đề phải lập đại nguyện, và nói
như thế này: “Nếu tôi chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tôi
sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được
an trụ trong cảnh đại Niết Bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng
sinh, thảy đều được đầy đủ bát nhã ba la mật”. Như thế gọi
là tự lợi cũng gọi là lợi tha.
Cho nên Bồ Tát khi thoạt mới phát
tâm Bồ Đề, thời được gọi là Bồ Đề nhân duyên, chúng sinh nhân
duyên, chính nghĩa nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp nhân
duyên, thâu nhiếp tất cả cỗi gốc thiện pháp.
Cho nên Bồ Tát được gọi là bậc
Đại Thiện, cũng gọi là cỗi gốc lành của tất cả chúng sinh, vì vậy mà Bồ
Tát có thể phá trừ ba nghiệp ác ở nơi thân, khẩu, ý v.v… cho tất
cả chúng sinh.
Tất cả những thệ nguyện của thế
gian, tất cả thệ nguyện của xuất thế gian, không có thệ
nguyện nào bằng được thệ nguyện Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Thệ nguyện như thế, thực không gì
hơn được, không gì trên được nữa.
Bồ Tát khi thoạt mới phát tâm Bồ
Đề, có năm việc:
Một là tín,
Hai là hạnh,
Ba là cảnh giới,
Bốn là công đức,
Năm là tăng tưởng.
Bồ Tát nếu hay phát được tâm Bồ
Đề, thì được gọi là Ma Ha Tát, quyết định sẽ chứng được đạo Vô
thượng Chính đẳng Chính giác, trọn Đại thừa hạnh.
Cho nên khi thoạt mới phát tâm Bồ
Đề, tức hay thâu nhiếp được tất cả thiện pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát phát
tâm Bồ Đề, tu hành mong được quả vị Vô thượng Chính đẳng
Chính giác, nếu không phát tâm quyết không thể nào thành được,
cho nên phát tâm, là cỗi gốc của quả vị Vô thượng Chính đẳng
Chính giác.
Bồ Tát Ma Ha Tát coi thấy chúng
sinh phải chịu những sự khổ não, thì lòng sinh thương xót,
nên Bồ Tát, nhân tâm từ bi, mà phát tâm Vô thượng
Chính đẳng Chính giác;
Nhân phát tâm Vô thượng Chính
đẳng Chính giác, mà hay tu tập ba mươi bảy trợ đạo pháp, nhân
tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, mà chứng được đạo Vô
thượng Chính đẳng Chính giác;
Cho nên phát tâm là cỗi gốc của
đạo Vô thượng Bồ Đề, do phát tâm Bồ Đề, mới hay hành trì được Bồ
Tát giới.
Cho nên phát tâm gọi là gốc, gọi
là nhân, gọi là nhành, gọi là lá, cũng gọi là hoa, lần lượt gọi là quả,
cũng gọi là hạt.
Bồ Tát phát tâm, cũng có người thì
được rốt ráo, có người thì không được rốt ráo, người được rốt
ráo thì mãi mãi cho đến khi chứng được đạo Vô thượng
Chính đẳng Chính giác, trọn không bao giờ thoái chuyển.
Còn người không được rốt ráo, là
trong tâm đã có sự thoái chuyển.
Thoái chuyển có hai thứ: Một
là thoái chuyển rốt ráo, hai là thoái chuyển không rốt
ráo.
Người thoái chuyển rốt ráo, là
người trọn không thể phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, không
thể suy tìm, tu tập pháp đó được.
Người thoái chuyển không rốt
ráo, là người thường cầu phát tâm Bồ Đề, thường tu tập pháp
đó.
Phát tâm Bồ Đề có bốn thứ:
-Một là, nếu có thiện nam tử, thiện
nữ nhân nào, hoặc được coi thấy, nghe thấy những việc bất khả tư nghị của
chư Phật, Bồ Tát, liền sinh tâm cung kính, và nghĩ rằng: “Những sự của
Phật, Bồ Tát là bất khả tư nghị, nếu Phật, Bồ Tát chứng
được sự bất khả tư nghị ấy, thì ta đây cũng quyết sẽ chứng được đạo Vô
thượng Chính đẳng Chính giác, cho nên ta dốc lòng, nhớ nghĩ đạo Bồ Đề,
và phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
-Hai là, lại có người không được coi thấy
những sự bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát mà chỉ nghe thấy
cái tạng bí mật của chư Phật, Bồ Tát liền sinh tâm cung
kính tin tưởng, cầu đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác,
và Ma Ha Bát Nhã, cho nên phát tâm Bồ Đề.
-Ba là, lại có người không được coi thấy
những việc bất tư nghị của chư Phật, Bồ Tát cũng không được nghe
pháp, mà do vì khi coi thấy pháp diệt, rồi trong lòng nghĩ rằng: “Vô thượng Phật
pháp, hay diệt trừ được vô lượng khổ não cho chúng
sinh, làm ích lợi lớn lao cho chúng sinh, chỉ có chư Phật, Bồ
Tát, mới hay làm cho Phật pháp được trường tồn bất diệt, ta
ngày nay cũng nên phải phát tâm Bồ Đề, khiến cho các chúng sinh, xa
lìa phiền não, thệ nguyện thân này của ta, dầu cho phải chịu mọi
sự đại khổ não đi chăng nữa, ta quyết giữ gìn Phật pháp,
khiến cho Phật pháp được trường tồn mãi mãi ở thế
gian, cho nên ta phát tâm Bồ Đề.
-Bốn là, lại có người không được coi thấy
chư Phật, Bồ Tát, không được nghe pháp, khi pháp diệt cũng
không được thấy, mà chỉ thấy tất cả chúng sinh ở trong đời ác
trược, đủ mọi thứ phiền não, tham dục, giận tức, ngu si, không
thẹn, không hổ, bỏn xẻn, tật đố, ganh ghét, nghi ngờ, lười biến
v.v…
Thấy như thế rồi, liền nghĩ rằng: “Trong
đời ác trược này, chúng sinh chẳng chịu tu thiện, tâm Nhị
thừa còn không phát, nữa là tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, ta
nay phải nên phát tâm Bồ Đề, phát tâm Bồ Đề rồi, liền dạy
bảo tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chính
đẳng Chính giác”.
Bấy giờ Ngài Hỷ Vương Bồ Tát, lại bạch
Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Bồ Tát tri
ân báo ân bằng cách tự phát tâm Bồ Đề và dạy bảo tất
cả chúng sinh đều phát tâm Bồ Đề. Song Đức Như
Lai thuở xưa khi còn phải sinh tử, thoạt mới phát tâm Bồ Đề,
là do nhân duyên gì?
Phật dạy:
-Thiện nam tử! Về đời quá khứ lâu
xa, kiếp số nhiều không thể kể tính được, khi ta còn ở trong vòng sinh
tử, do phiền não trọng chướng, tạo nên những nghiệp ác ở
nơi thân, khẩu, ý, nên phải đọa lạc vào các địa ngục như: Địa
ngục A ha ha, địa ngục A ba ba, địa ngục A đạt đa, địa
ngục Đồng phủ, địa ngụcĐại đồng phủ, địa ngục Hắc thạch, địa
ngục Đại hắc thạch, cho đến địa ngục Hỏa xa.
Ta nhớ khi ta phải đọa vào địa ngục Hỏa
xa, ta cùng với hai người bạn phải kéo một cái xe lửa, bốc cháy ngùn ngụt, quỷ
đầu trâu tên là A Bàng, ngồi ở trên xe, mắm miệng, nghiến răng, trợn mắt,
miệng, mắt, tai, mũi đều phun ra khói lửa, thân thể to lớn, tay chân
gân guốc, hình sắc tía đen, tay cầm gậy sắt, đánh đập luôn
luôn, mặc dầu ta bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn cố sức kéo, lúc
đó hai người bạn của ta, vì hơi sức yếu đuối, kéo không nổi, nên bị quỷ đầu
trâu A Bàng, lấy đinh ba bằng sắt, đâm vào bụng, lấy gậy bằng sắt đập vào lưng,
máu phun ra như suối chảy, đau đớn khó nhẫn, những người ấy cất
tiếng kêu gào rất thảm thiết, người thì kêu cha mẹ, người thì
kêu vợ con. Nhưng dầu có kêu gào như thế, cũng chẳng ích lợi gì
đối với mình. Lúc ấy, ta thấy những người bạn của ta chịu sự khổ não như
vậy, lòng ta sinh ra thương xót. Nhân lòng sinh tưởng thương xót ấy,
cho nên ta phát tâm Bồ Đề, vì những người chịu tội ấy, mà
khuyên bảo quỷ đầu trâu A Bàng rằng:
-Những người phải chịu tội đây,
thực đáng thương xót, xin ông hãy rũ lòng nới tay, đừng nên đánh đập họ tội
nghiệp.
Lúc ấy quỷ đầu trâu A Bàng, nghe ta
nói như thế, lòng sinh giận tức, dùng đinh ba bằng sắt đâm vào cổ ta, chết liền
tại chỗ, ta liền được thoát khỏi cái tội trăm kiếp phải đọa lạc ở
nơi địa ngục Hỏa xa, chính vì lúc đó ta phát được tâm Vô thượng
Chính đẳng Chính giác vậy.
Phật bảo Ngài Bồ Tát Hỷ
Vương:
-Người kéo xe lửa tức là thân ta ngày
nay, nhân phát tâm Bồ Đề, mà chóng được thành Phật.
Thế nên biết: Tất cả chúng sinh phát
tâm Bồ Đề, sự đó chẳng phải một, hoặc nhân lòng từ bi, hoặc
nhân lòng giận tức, hoặc nhân lòng bố thí, hoặc nhân lòng bỏn
xẻn, hoặc nhân lòng vui mừng, hoặc nhân phiền não, hoặc
nhân ân ái ly biệt, hoặc nhân sự oán ghét gặp gỡ, hoặc
nhân gần gũi bạn lành, hoặc nhân bạn ác, hoặc nhân được
coi thấy Phật, hoặc nhân được nghe pháp… cho nên biết: Tất cả chúng
sinh, phát tâm Bồ Đề, mỗi mỗi chẳng phải đồng nhất.
Hỷ Vương nên biết! Bồ Tát Ma Ha Tát, tri
ân báo ân, sự đó như thế.
Khi Phật nói pháp ấy rồi, có một vạn tám
trăm ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Trong
tất cả đại chúng, có người được chứng quả Tu đà hoàn, cho đến A
la hán, Thiên địa quỷ thần, Nhân và Phi nhân cũng phát tâm Thanh
Văn, Bích Chi Phật. Sau khi được nghe Phật nói pháp, ai nấy đều vui
mừng, đầu mặt làm lễ Phật, rồi quanh về phía bên phải mà lui trở ra.
Comments
Post a Comment