KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN
Dịch giả:
Thích Chính Tiến - Thích Quảng Độ
PL. 2506 - 1962
PHẨM LUẬN NGHĨA THỨ NĂM
Khi ấy Đức Như Lai lên
cung trời Đao Lợi, vì mẹ là Ma Da phu nhân, và các đại chúng, thuyết
pháp trong thời gian chín mươi ngày. Trong chín mươi ngày ấy,
ở cõi Diêm Phù Đề, tất cả đều không biết Đức Như Lai ở chỗ
nào. Ngài Đại Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất, dùng hết thần
lực, để tìm kiếm khắp cả mười phương, cũng lại chẳng biết. Ngài A
Na Luật Đà, thiên nhỡn đệ nhất, xem xét khắp cả mười phương,
ba ngàn đại thiên thế giới, cũng lại chẳng thấy, cho đến cả năm
trăm đệ tử, cũng chẳng biết Đức Như Lai ở đâu, nên ai nấy đều
mang lòng buồn rầu mong nhớ.
Vua Ưu Điền, vì luyến mộ Phật,
nên dùng cây ngưu đầu chiên đàn, tạc làm hình tượng của Đức
Như Lai, để lễ bái cúng dàng cũng như Phật tại thế không
khác.
Bấy giờ Đại Vương Ưu Điền mới triệu
tập bọn Lục sư ngoại đạo, hỏi xem Đức Như Lai ở chỗ nào?
Lúc ấy bọn Lục sư liền
tâu rằng:
-Đại Vương nên biết: Đó chẳng qua là cái
trò huyễn thuật của Sa Môn Cù Đàm, hóa làm như vậy, cái pháp huyễn
thuật ấy không phải là chân thực.
Đại Vương nên biết: Trong bốn loại kinh
điển Vệ Đà của chúng tôi, cũng đã có nói trong khoảng một
ngàn năm hay hai ngàn năm sau, sẽ có một người huyễn thuật ra đời. Sa môn Cù
Đàm chính là người đó vậy.
Bấy giờ Ngài A Na Luật Đà đi đến
chỗ Đại Vương, bảo Đại Vương rằng:
-Đại Vương nên biết: Đức Như Lai ngày
nay hiện đang ở trên cung trời Đao Lợi, sau bảy ngày nữa, sẽ trở về cõi Diêm
Phù Đề.
Vua nghe lời nói ấy, lòng
sinh vui mừng, truyền lệnh cho khắp cả nước, phải quét dọn, rưới nước, đốt
hương, treo các cờ phướng và trang thiết mọi thứ như: Cỗ bàn, hương hoa, kỹ
nhạc để cúng dàng Phật.
Lúc đó bọn Lục sư, thấy mọi
người đều tụ họp, để trang thiết mọi thứ cúng dàng như thế, mới hỏi rằng:
-Các ngươi trang thiết mọi thứ cúng dàng
như vậy, là muốn để mời Quốc vương hay Vương tử ư?
Những người ấy trả lời rằng:
-Không phải vậy đâu!
Bọn Lục sư hỏi: -Nếu không phải
vậy, chắc là để mời các quan Đại thần, Bà la môn hay cư sĩ ư?
Đáp rằng: -Không phải vậy đâu!
Bọn Lục sư lại hỏi: -Nếu không
phải vậy, chắc là để hội họp họ hàng chăng?
Đáp rằng: -Cũng không phải vậy nữa, mà
đó là chúng tôi muốn thỉnh Phật để cúng dàng vậy.
Bọn Lục sư lại hỏi: -Phật là
gì?
Những người tụ họp trả lời:
-Là bật Nhất thiết trí.
Bọn Lục sư lại hỏi: -Nhất thiết
trí là gì?
Đáp rằng:-Là người cha lành của tất cả chúng
sinh, các ông không biết hay sao?
Vua Bạch Tịnh là dòng dõi hào
quý đệ nhất, từ sơ kiếp đến nay, con cháu thường tiếp nối nhau,
làm Vua Chuyển Luân, nhưng gần hai đời nay, thì không làm Vua Chuyển
Luân nữa.
Tuy không làm Vua Chuyển Luân, mà
chỉ làm Vua cõi Diêm Phù Đề thôi. Trong ba anh em, người lớn nhất,
tên Tịnh Phạn, người thứ hai, tên là Hộc Phạm, và người con út, tên
là Cam Lộ Phạm. Vua Tịnh Phạm sinh được hai người con trai, người
con trưởng tên là Tất Đạt, người con nhỏ tên là Nan Đà. Vua Hộc Phạm
lại sinh được hai người con, người con trưởng tên là Đề Bà Đạt Đa, người
con nhỏ tên là A Nan. Vua Cam Lồ sinh được một người con
gái, tên là Cam Lộ Vị.
Một bữa nọ, người anh cả là Thái
Tử Tất Đạt, ra ngoài thành du ngoạn coi thấy những cảnh lão, bệnh,
tử, trong lòng bỗng sinh ra mối ưu tư, đến quên cả ăn uống, Thái
tử thương xót cho nhân sinh, không luận là sang, hèn, giàu,
nghèo, ai ai rồi cũng sẽ không thể thoát khỏi được những cảnh khổ ấy;
Nên trong một đêm nọ, Thái tử vượt
thành xuất gia, ngồi tu dưới gốc cây Bồ Đề khổ hạnh trong
sáu năm, sau đó Ngài chứng được Nhất thiết trí. Cho nên kêu Ngài là bậc Nhất
thiết trí.
Ngài là bậc đã tự tu hành,giác ngộ thành
Phật, đầy đủ mười lực, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất
cộng, cho đến chứng được Nhất thiết chủng trí. Ngài sinh được
bảy ngày thì Thánh mẫu mệnh chung, sinh lên cõi trời Đâu Lợi. Ngày
nay Phật lên cung trời Đao Lợi, vì mẹ thuyết pháp trong chín
mươi ngày, sau bảy ngày nữa, Phật sẽ trở về cõi Diêm Phù Đề này.
Bấy giờ bọn Lục sư, nghe lời ấy
rồi, sinh lòng ghen ghét, phiền muộn giận tức, liền tụ
tập tất cả đồ chúng, để cùng nhau bàn bạc rằng: “Nếu Sa Môn Cù
Đàm trở vể cõi Diêm Phù Đề này, thì tất cả nhân dân, đều sẽ
bỏ chúng ta, cúng dàng Cù Đàm như vậy chúng ta sẽ bị
cô cùng, e sẽ không thể nào sống được!”
Bấy giờ bọn Lục sư, lại nghĩ rằng:
“Chúng ta ngày nay, cần phải đi đến ngay trong những chỗ đông đảo dân
chúng, nói lớn như thế này:
-Các người nên biết: Sa Môn Cù
Đàm quả thực là người không hiểu biết gì cả, cũng chẳng khác nào
đứa trẻ con. Gần đây ông ra khỏi dòng họ Thích, ngồi dưới
gốc cây Bồ Đề, tự nói rằng đã chứng được Nhất thiết chủng trí, nên biết
đó chỉ là lời nói hư vọng. Vì sao?
–Vì một hôm Vua A Kỳ Đạt, tới thỉnh Cù
Đàm để cúng dàng, nhưng những món cúng dàng chỉ là lúa cho ngựa ăn, thế
mà Cù Đàm cũng không hay biết gì cả, lại nhận lời thỉnh của nhà
Vua. Nên biết Cù Đàm quả thực không phải là người Nhất
thiết trí vậy.
Kế đến lại hỏi A Nan: -Thời
gian an cư, còn bao nhiêu ngày nữa?
A Nan thưa rằng: -Còn bảy ngày nữa.
Kế đến lại hỏi A Nan: -Ở trong rừng
Kỳ Hòa vì sao lại có nhiều những tiếng chim chóc như thế?
A Nan thưa rằng: -Vì nói tranh nhau
ăn.
Lại Cù Đàm vừa sinh được bảy
ngày, thì mẹ mệnh chung vì lẽ đó nên biết, Cù Đàm là người bạc
phúc, cũng là người cực ác, sở dĩ vì thế mà mẹ mất sớm.
Lại không phải là người con có lòng
từ hiếu sớm tối phụng dưỡng cha mẹ, mà trái lại, lại bỏ đi
vào chốn thâm sơn cùng cốc, nên cũng là người vô ân, Vua cha
(vì) cưới nàng Cù Di cho ông, nhưng ông trọn không làm hết bổn phận của
một người chồng đối với vợ, khiến cho di mẫu Kiều Đàm Di, phải chịu
những sự đại khổ não, cho nên biết, Cù Đàm là người chẳng biết
ơn, chẳng biết nhớ ơn.
Đồ chúng của Sa Môn Cù
Đàm không có tôn ty trật tự, vì năm trăm đệ tử đều xưng là
đệ nhất. Thầy đã không có giáo pháp, đệ tử cũng không
có đạo nghiệp tu hành, cho đến các đồ chúng của Cù
Đàm, gồm đủ hạng người như: Tỷ khưu Đà Phiếu, là người chỉ biết trông coi tọa
cụ cho Tăng chúng, cũng xưng là đệ nhất, thông minh trí tuệ như Xá
Lợi Phất, cũng được dự vào trong số đồ chúng đó. Dốt
nát như Tỷ khưu Bàn Đặc cũng được dự vào trong số đồ
chúng đó, cho đến Tỷ khưu ni Gia Du Đà La, là người thiểu
dục, cũng được dự vào trong số đồ chúng đó; Liên Hoa Sắc,
là một người con gái nhà thổ, là hạng đồi bại nhất ở trong
thành Xá Vệ, cũng được dự vào trong số đồ chúng đó, cho
đến Quân Đề là một đứa trẻ con chưa hiểu biết gì cả, cũng
được dự vào trong số đồ chúng đó; cho đến ông Tu
Bạt Đà La là một người già cả, một trăm hai mươi tuổi đầu cũng được dự
vào trong số đồ chúng đó; cho đến những người hào quý
thuộc dòng họ Thích, cũng được dự vào trong số đồ
chúng đó; và kẻ hèn hạ nhất, chỉ làm nghề hốt phân ở trong thành Vương
Xá cũng được dự vàotrong số đồ chúng đó. Cho nên biết:
Trong giáo pháp của Cồ Đàm, thực là hỗn tạp, không có tôn
ty trật tự, chẳng đáng được tôn kính, cũng ví như một cơn
gió lớn, thổi mọi lá cây tụ hợp lại một chỗ, giáo pháp của Cù
Đàm cũng lại như thế, hơn nữa đồ chúng của Cù Đàm nhận
lãnh những sự cúng dàng như y phục, thức ăn uống của mọi
người, cũng ví như đàn chim đi kiếm nhặt những vật mà người thế
gian này liệng bỏ. Các ngươi ngày nay, lại thỉnh Cù Đàm làm
gì?
Mọi người nghe bọn Lục sư nói
rồi, cũng ví như quả đất chẳng hề rung động, đại chúng vì khát
ngưỡngĐức Như Lai, nên dẫu nghe bọn Lục sư nói như vậy, mà trong
lòng vẫn rắn chắc như kim cương, không hề có thêm bớt, vẫn khát
ngưỡng Đức Như Lai, cũng ví người bị khát trông mong được nước uống.
Sau bảy ngày, Đức Như Lai từ thiên
cung trở về cõi Diêm Phù Đề, có vô lượng trăm
ngàn chư Thiên tùy tùng. Đức Như Lai phóng ra ánh hào
quang rực rỡ, thân lực cảm động, chư Thiên trỗi lên trăm
ngàn vạn thứ ca nhạc của cõi trời để tán thán cúng
dàng Phật, cho đến tất cả chư Thiên, tất cả Long thần, tất
cả Quỷ thần, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già,
Nhân và Phi nhân v.v… tất cả đại chúng thảy đều tụ hợp đông
như mây, lễ bái cúng dàng Phật.
Bấy giờ Đại Vương Ưu Điền cùng
với đại chúng ra mãi xa nghinh đón Đức Như Lai, đầu mặt lễ xuống chân
Phật, rồi lui ra ngồi một phía.
Lúc đó bọn Lục sư cùng với đồ
chúng tụ họp, lại khởi ý nghĩ rằng: “Lũ chúng ta ngày
này, tai vạ sắp tới nơi, tuy lại ở trước mọi ngươì, nói lên lời nói ấy,
mà không ai tin nhận, nay phải đến trong tất cả đại chúng trời, người,
tuyên lệnh như thế, để cho đại chúng biết một cách rõ ràng.”
Bọn Lục sư nghĩ như vậy rồi,
liền cùng với đồ chúng; tám ngàn người, cùng đi đến trong đại chúng. Đến
rồi lui về ngồi một phía.
Bấy giờ lại có một người con của Nhạc
Thần, tên là Nhạc Tráng Sĩ, gảy đàn cầm bằng thất bảo, đi đến chỗ Đức
Như Lai, đầu mặt lễ xuống chân Phật, rồi lui về một phía, gảy
đàn ca hát, phát ra tiếng rất nhiệm mầu, hòa nhã, khiến cho tâm ý của đại
chúng, ai nấy cũng được vui vẻ, các bật Thanh Văn như
Ngài Xá Lợi Phất v.v… nghe thấy tiếng đàn của Tráng Sĩ, bất chợt cũng
phải động thân dậy múa, núi Tu Di là vật vô tri cũng phải nghiêng
ngửa.
Khi ấy Đức Như Lai, liền nhập “Hữu
tướng tam muội” dùng sức tam muội, khiến cho tiếng đàn vang xa khắp cả
ba ngàn đại thiên thế giới trong tiếng đàn đó diễn nói đầy đủ ra
các pháp như: Khổ, không, vô thường, bất tịnh, vô ngã. Những chúng
sinh phóng túng, nghe thấy tiếng đàn nhiệm mầu ấy, diễn nói đủ cả những sự hiếu
dưỡng phụ mẫu, tri ân báo ân trước kia trải qua lâu
xa vô lượng số A tăng kỳ kiếp của Đức Như Lai, tất cả
các chúng sinh ấy, đều dõi theo tiếng đàn, đi đến cõi Diêm Phù Đề,
tìm đến chỗ Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ xuống chân Phật, đoạn lui ngồi
về một phía.
Bấy giờ Đức Như Lai nhập tam
muội vắng lặng, tất cả đại chúng, đều vắng lằng như thế.
Khi ấy, ở trong đại chúng, bỗng có
một cái tháp bằng thất bảo, từ dưới đất vượt lên, dừng ở giữa hư
không, có vô số cờ phướng treo ở trên tháp, và trăm ngàn chuông báu,
không đánh tự kêu, gió nhẹ thổi động, phát ra những thứ tiếng rất nhiệm mầu.
Bấy giờ đại chúng, thấy bảo
tháp ấy, từ dưới đất vượt lên, lòng sinh ra nghi ngờ:
Vì nhân duyên gì mà lại có bảo tháp này, từ dưới đất vượt
lên như thế?
Các bật Thanh Văn như
Ngài Xá Lợi Phất v.v… dùng tận trí lực của mình để suy
nghĩ trụ lượng, cũng không thể biết được. Những Bồ Tát Ma Ha Tát là
người hiện trú ở thế giới Sa Bà này, đến như Ngài Di Lặc Bồ
Tát, cũng không thể biết được.
Bấy giờ bọn Lục sư, liền khởi ý
nghĩ rằng: Vì nhân duyên gì mà có bảo tháp nầy? Nếu
như có người lại hỏi ta, mà ta không biết thì làm thế nào có thể gọi ta là người hiểu
biết tất cả được?
Lại nghĩ rằng: Tại sao Cù Đàm lại
không mau vì đại chúng diễn nói việc ấy?
Bấy giờ Đức Như Lai, từ trong cảnh chính
định xuất khởi. Vua Thích Đề Hoàn Nhân, là Vua ở cõi trời
Đao Lợi, liền lấy thiên y ở cõi Trời, trải làm tòa sư tử. Đức
Như Lai liền lên tòa ấy, ngồi kết già phu, khác nào như núi
Tu Di vương ở giữa đại hải.
Lúc đó Ngài Di Lặc Bồ Tát quan
sát tâm chúng, thảy đều nghi ngờ, tự mình cũng không rõ, nên liền từ
tòa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ xuống chân, chấp tay đối
trước Phật, bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì
mà có bảo tháp này, từ dưới đất vượt lên như thế?
Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát:
-Về đời quá khứ xa xưa, vô
lượng A tăng kỳ kiếp, số nhiều không thể lấy tâm nghĩ, miệng bàn cho xiết
được, khi ấy có một Đức Phật, hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng
Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất
hiện ở đời, giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng
kỳ chúng sinh, khiến cho kiên cố đạo Vô thượng Chính đẳng
Chính giác.
Sau khi Phật diệt độ ở trong
đời tượng pháp, có một nước tên là Ba La Nại, Vua nước Ba La Nại là
một người rất thông minh nhân từ, thường dùng pháp trị
quốc, khiến cho nhân dân không gặp phải những sự oan uổng.
Vua cai trị và làm chủ cả sáu mươi tiểu
quốc, tám trăm tụ lạc. Vua không có con cái, nên Vua thường tự cúng
dàng phụng sự các vị thần như: Thần núi, thần cây, tất cả thần kỳ, trải
qua mười hai năm, không hề biếng nhác, với hoài vọng mong cầu
có được một người con để nối dõi Vương nghiệp sau này.
May thay! Bà đệ nhất phu nhân liền
có thai, đầu mười tháng sau, thì sinh hạ được một con trai, hình tướng đoan
chính, tốt đẹp lạ thường.
Sau khi sinh rồi, Vua liền truyền
cho triệu tập các quan đại thần, và các Vua ở các tiểu quốc, để
đến xem tướng và đặt tên Thái tử. Vì Thái tử, bẩm tính
không hay giận tức, nên đặt tên là Nhẫn Nhục.
Thái tử Nhẫn Nhục, khi tuổi đã khôn
lớn, Thái tử hay ưa làm sự bố thí. Thái tử là một người
rất thông minh và nhân từ, đối với các chúng sinh. Ngài
có một tấm lòng từ bi bình đẳng.
Bấy giờ Đại vương, có sáu vị đại
thần, tính tình hung bạo, độc ác, gian dối nịnh
hót, thường hay gây ra những sự oan uổng một cách vô
nhân đạo, cho nên nhân dân đều chán ghét. Sáu người đại thần
này, tự biết những hành động của mình là trái quấy, nên thường mang lòng tật đố,
oán ghét Thái tử.
Bấy giờ Đại vương lâm bệnh nặng,
khổn não, tiều tụy, mạng sống không còn được bao lâu.
Nhẫn Nhục Thái tử đến bảo các quan
đại thần rằng:
-Vua cha bị bệnh nặng lắm, nay sẽ làm thế
nào để chạy chữa cho Vua được qua khỏi cơn bệnh hoạn ấy.
Các đại thần nghe rồi, sinh lòng giận tức,
bảo Thái tử rằng:
-Tính mạng của Vua sẽ không được bao lâu
đâu, dù cho có thuốc hay thế nào cũng không thể qua khỏi được, vì thế nên biết, tính
mạng của nhà Vua sẽ không sống được bao lâu nữa.
Thái tử nghe rồi, lòng sinh khổ não,
ngất xỉu ra đất.
Bấy giờ sáu người quan Đại thần, liền
vào trong chỗ nhà vắng, cùng nhau bàn mưu tính kế rằng: “Thái tử Nhẫn Nhục,
nếu chúng ta không tìm cách mà trừ khử đi,
thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể sống được một cách yên ổn”.
Nghĩ mưu kế như vậy rồi, người Đại thần
thứ nhất nói:
-Thái tử Nhẫn Nhục, theo tôi nhận
thấy, thì không có một sự gì mà có thể hãm hại được cả.
Một quan Đại thần khác lại
nói:
-Tôi có phương tiện, có thể trừ
khử được dễ dàng.
Sau khi bọn Đại thần ấy, cùng nhau lập
mưu, thiết kế đã xong xuôi, liền đi đến chỗ Thái tử, bảo Thái tử rằng:
-Kẻ Hạ thần đã đi cùng khắp cả sáu mươi
tiểu quốc, tám trăm tụ lạc, tìm kiếm các thứ cỏ thuốc, nhưng trọn
không kiếm ra được.
Thái tử hỏi rằng:
-Những thứ cỏ thuốc mà Đại thần tìm
kiếm đó, phải là những thứ như thế nào?
Đại thần tâu rằng:
-Thái tử nên biết: Các thứ thuốc mà
tôi tìm kiếm đó, chính là con mắt và tủy của người nào mà từ khi sinh
ra cho đến khi chết, không hề tức giận ai bao giờ, nếu tìm được thuốc
ấy, thì mới có thể bảo toàn tính mạng cho nhà Vua được, còn nếu như
không tìm được, thì mạng sống của Vua sẽ chẳng đuợc bao lâu nữa, mà khắp cả
các nước chúng tôi không kiếm đâu ra được một người như thế cả.
Thái tử nghe rồi, lòng sinh ưu não,
sợ mình không biết có được đủ đức tính ấy không?
Thái tử liền bảo với vị Đại thần rằng:
-Thân của ta nay phỏng có được như người đó chăng? Vì cớ sao? –Ta từ khi sinh
ra cho đến nay, chưa từng có giận tức ai bao giờ cả.
Đại thần tâu rằng: -Chỉ có Thái tử mới
được như người đó mà thôi, nhưng việc đó cũng khó lắm. Vì cớ sao? -Bởi sự quý
trọng nhất trong thiên hạ, không gì quý bằng thân mình.
Thái tử bảo rằng:
-Không phải như các Đại thần nói đâu, nếu
như Vua cha ta được qua khỏi trọng bệnh, thì dù cho ta có phải bỏ trăm ngàn
thân nầy đi chăng nữa, cũng chưa phải đã là khó, huống chi ngày nay, ta mới chỉ
bỏ một cái thân nhơ nhớp này ư.
Đại thần tâu rằng: -Việc đó là như thế,
xin Thái tử tùy ý định liệu.
Bấy giờ Thái tử Nhẫn Nhục lòng
sinh vui mừng, và tự nghĩ rằng: “Nếu như có thuốc ấy, có thể chữa lành bệnh
cho Vua cha, việc ấy ta cần phải làm ngay.”
Thái tử Nhẫn Nhục liền vào
trong cung, đến chỗ mẹ, đầu mặt lễ xuống chân mẹ, chấp tay đối trước
Người mà thưa rằng:
-Thưa mẹ! Nay con muốn đem thân mạng này
của con, để làm thuốc chữa cho Vua cha khỏi bệnh, con e thân mạng con
sẽ không thể nào sống được nữa, cho nên con đến đây để vĩnh biệt mẹ,
xin mẹ đừng lo buồn thương nhớ con, để phải suy tổn đến ngọc thể của
mẹ.
Người mẹ của Thái tử, nghe lời con
nói rồi, bà sinh lòng buồn rầu, mê mẩn, quên mất cả bốn phương hướng,
nghẹn ngào không nói ra lời. Bà ôm lấy Thái tử, với sắc thái buồn
rầu mê mẩn, phải dùng nước lạnh rảy vào mặt, hồi lâu mới tỉnh.
Bấy giờ Thái tử thưa cùng với
mẹ rằng:
-Thưa mẹ! Mạng của Vua cha, chỉ trong
giây phút, không còn được bao lâu nữa nên cần phải làm ngay, để cho
Vua cha uống mới mong khỏi được.
Bấy giờ Thái tử liền gọi
các quan Đại thần, các Vua ở các tiểu quốc tới, rồi ở giữa đại chúng, Thái
tử tuyên cáo như thế này:
-Thân ta ngày nay đây, xin vĩnh biệt cùng
tất cả đại chúng.
Bấy giờ Đại thần, liền hô người Chiên
đà la, chẻ xương lấy tủy, và khoét cả đôi mắt của Thái tử.
Lúc ấy Đại thần liền hòa làm thuốc,
dâng lên cho Đại vương. Vua uống rồi, thân thể được bình
phục. Sau khi bình phục rồi, Vua hỏi các Đại thần rằng:
-Các ngươi tìm đâu ra được thứ thuốc hay
ấy, mà chữa cho ta lành bệnh tài như thế?
Đại thần tâu với Vua rằng:
-Tâu Đại vương! Thuốc ấy là do Thái tử Nhẫn
Nhục chế biến, chứ chẳng phải sức của những kẻ hạ thần có thể làm được đâu
ạ.
Vua nghe nói như thế, tâm thần kinh
sợ, dựng cả chân lông, khẽ hỏi các Đại thần rằng:
-Thái tử Nhẫn Nhục hiện nay ở
đâu?
Đại thần tâu rằng: -Thái tử hiện đang ở ngoài kia, thân thể của Thái
tử đã bị thương tổn, mạng sống sẽ không được bao lâu nữa.
Vua nghe lời nói ấy rồi cất
tiếng kêu khóc -Lạ thay! Lạ thay!
Vua tự vật vã xuống đất, thân
thể của Vua bị lấp láp. Vua nói rằng:
-Như ta ngày nay, thực là vô tình, tại
sao ta lại có thể uống thứ thuốc bằng mắt và tủy của con ta như thế được!.
Vua liền đi đến chỗ Thái tử,
như than ôi! Thái tử đâu còn sống được nữa!
Vua cùng với phu nhân, các quan,
dân, vô lượng đại chúng, trước sau vây quanh lấy Thái tử. Mẹ
của Thái tử rất sầu não, bà gieo mình vào chỗ tử thi của
con, khóc lóc thảm thiết, rồi bà tự nói rằng:
-Không biết kiếp trước tôi có
làm tội ác gì mà nay khiến con tôi phải chịu khổ não như thế
này!
Bấy giờ, Vua và các Vua ở các tiểu quốc,
liền lấy gỗ thơm bằng ngưu đầu chiên đàn, chất lên thành đống, để
làm phép hỏa thiêu, lại xây tháp bằng thất bảo, để cúng dàng thân cốt
của Thái tử.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, bảo Ngài Di
Lặc Bồ Tát rằng:
-Các Thiện nam tử! Và đại
chúng nên biết: Đại vương nước Ba La Nại lúc bấy giờ,
chính là cha ta Duyệt Đầu Đàn ngày nay, người mẹ của Thái tử lúc
bấy giờ chính là mẹ ta Ma Gia phu nhân ngày nay, còn Thái tử Nhẫn
Nhục chính là thân Ta ngày nay.
Bồ Tát đã từng ở trong vô lượng A
tăng kỳ kiếp, hiếu dưỡng cha mẹ, nào là y phục, thức ăn uống,
phòng xá, giường chõng cho đến đem cả thân thể xương tủy để
cúng dàng cha mẹ, việc đó như thế.
Bởi nhân duyên ấy, đến
nay thành Phật, nay bảo tháp này, từ dưới đất vượt
lên, chính là tại nơi đây, xưa kia ta đã bỏ cả thân mạng cốt
tủy vì cha mẹ, và cũng tức ở nơi đây, trước kia đã xây tháp cúng dàng ta,
cho nên nay ta thành Phật, tháp ấy liền hiện ra ở trước đó vậy.
Bấy giờ, trong đại chúng, có vô
lượng người, trời, rồng, quỷ thần, nghe lời Phật nói như thế
rồi, vừa thương, vừa mừng, nước mắt giàn giụa, rồi đồng thanh khen ngợi
trăm ngàn công đức về sự báo hiếuphụ mẫu của Đức Như
Lai. Nhân lúc ấy, mà phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính
giác.
Lại có vô lượng trăm
ngàn chúng sinh phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Lại có vô lượng người chứng được quả
vị Tu Đà Hoàn mãi đến A La Hán.
Lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ
Tát Ma Ha Tát, không lâu sẽ chứng được đạo Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Cho
nên biết: Đức Như Lai là bậc chân thựchiếu dưỡng cha mẹ.
Lại nữa Bồ Tát: Vốn biết công
đức và bản nguyện của mẹ như thế, nên sinh ra thân của Như
Lai, và sinh ra thân của Như Lai, là đã viên mãn được bản
nguyện, cho nên không nhận lãnh sự lễ kính của Như Lai, nhân
thế mà sau khi sinh ra thân của Như Lai, được bảy ngày, thì Thánh
Mẫu mệnh chung.
Bấy giờ đại chúng, đều đồng
thanh khen ngợi công đức của Thánh Mẫu Ma Gia phu
nhân rằng:
-Lành thay Đức Ma Gia! Ngài đã sinh ra
thân của Như Lai, khắp cõi trời, và cõi người trong thế
gian nầy, không ai có thể sánh kịp được với công đức ấy của
Ngài.
Bấy giờ Càn Thát Bà Ma La, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất,
hồ quỳ chấp tay, bạch Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Thánh mẫu Ma
Gia phu nhân, tu công đức gì? Vì nhân duyên gì?
Mà sinh thành được thân của Như Lai?
Phật dạy: -Nghe cho khéo! Ta sẽ vì
ông, phân biệt giải nói:
Về đời quá khứ lâu xa, kiếp số
nhiều không thể tính kể cho xiết được, lúc bấy giờ có Đức Phật ra
đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, đến thời kỳ chính
pháp và tượng pháp đã diệt hết rồi, bấy giờ có một nước, gọi
là Ba La Nại, cách cung thành không bao xa, có một quả núi, gọi là chỗ ở của
các bậc Hiền Thánh, vì có trăm ngàn Phật Bích Chi ở trong núi ấy,
và có vô lượng ngũ thông thần tiên, cũng ở trong đó, vì có nhiều
những bậc tiên thánh ở trong ấy, cho nên người ta gọi quả núi đó là
“Thánh Du Cư Sơn”. Trong quả núi ấy, có một người Tiên ở trong một cái
hang về phía Nam, lại có một người Tiên ở về phía Bắc, ở trong giữa hai khoảng
núi ấy, có một cái suối, bên bờ suối có một hòn đá rất phẳng phiu.
Bấy giờ, người Tiên ở hang phía
Nam, thường hay đến giặt áo, rửa chân ở trên tảng đá ấy, xong
xuôi lại trở về chỗ cũ. Sau khi vị ấy đi khỏi không lâu,
thì có một con hươu cái lại tới đó uống nước, dần dần uống cả những
cáu ghét giặt áo trên tảng đá đó. Uống rồi, lại quay đầu liếm chỗ tiểu
tiện của mình.
Bấy giờ con hươu cái, nhân thế mà
thụ thai. Khi đã đủ tháng, sắp đến lúc sinh, theo phép của hươu cái, mỗi
khi đến lúc sinh là phải trở lại chỗ mình đã thụ thai trước kia, cho
nên con hươu cái này lúc đó cũng phải trở lại bên bờ suối, ở trên tảng
đá trước đây kêu rống, vật vã và sinh được một người con gái.
Bấy giờ người Tiên ở hang phía Nam, nghe
thấy con hươu cái ấy kêu rống, vật vả, nên lòng sinh ra thương xót, liền đến
xem, thì thấy con hươu cái ấy, sinh được một người con gái.
Bấy giờ, con hươu cái, đang dần dần liếm
khắp thân thể của người con gái ấy, bỗng thấy người Tiên đến, liền bỏ
chạy đi chỗ khác.
Lúc đó người Tiên, thấy người con gái ấy, hình
tướng đoan chính vẹn toàn, nên sinh lòng thương xót, liền lấy
chiếc áo bằng cỏ, bọc đem về hang, rồi ngày ngày kiếm trái cây, tuỳ thời nuôi nấng, cho
đến khi khôn lớn.
Đến năm mười bốn tuổi, nàng được cha rất yêu
dấu, nên cha nàng thường giao cho nàng công việc giữ lửa, khiến cho khỏi bị tắt. Nhưng
bỗng một ngày nọ, vì không để tâm cẩn thận, để lửa tắt mất, cho nên
nàng bị cha trách mắng, và bảo nàng rằng:
-Ta từ khi lớn đến giờ, chưa từng để cho
lửa tắt, mà con ngày nay, tại sao lại để tắt như thế, nay ở về hang phía Bắc
kia có lửa, con phải đến đó xin lửa đem về đây cho cha.
Bấy giờ, Lộc Nữ liền theo lời cha, đi đến
hang phía Bắc, bước bước cất chân, đều sinh ra hoa sen thơm
ngát, theo dấu chân của nàng, thành hàng ngũ đường lối trông rất có
thứ tự, nàng đi đến hang phía Bắc, hỏi người Tiên ở đó, xin lửa cho cha.
Bấy giờ, người Tiên kia, thấy người con
gái ấy, phúc đức như thế, dưới chân của nàng lại sinh ra hoa sen,
liền bảo nàng rằng: -Nếu con muốn được lửa, con hãy theo chiều bên phải, nhiễu
quanh hang này của ta, đủ bảy vòng, cho có hàng lối, thứ lớp, rõ ràng phân
minh, thì ra sẽ cho con lửa.
Vâng lời chỉ dạy, theo dấu chân
của nàng cất bước, đều mọc lên những bông hoa sen rất thơm tho mầu
nhiệm, và nàng nhiễu quanh hang của vị Tiên ấy, đủ bảy vòng mới thôi.
Người Tiên ấy lại bảo nàng rằng:
-Nếu con muốn được lửa, con lại phải từ
phía bên phải này đi trở về, thì ta sẽ cho con lửa.
Bấy giờ, nàng Lộc Nữ, vì muốn được lửa,
nên cũng phải làm theo như lời của vị Tiên kia dạy mà đi, nhưng sau
khi người con gái ấy đi chưa bao lâu, thì bỗng gặp vua nước Ba La Nại, đem
các đại thần, trăm ngàn vạn dân chúng, trước sau vây quanh, ngàn xe vạn mã, vào
rừng để ngao du săn bắn hươu nai.
Vua nước Ba La Nại, một mình cỡi
một con danh tượng, đi đến chỗ vị Tiên ở hang phía Bắc, vua thấy hoa sen đó,
mọc quanh rất có hàng lối.
Bấy giờ, Đại vương sinh
lòng vui mừng, khen rằng:
-Lành thay! Lành thay! Đại đức thần
tiên! Đại Tiên Đạo Sư có phúc đức lớn lao như thế!
Bấy giờ người Tiên ở phía Bắc liền tâu với
nhà Vua rằng:
-Đại vương nên biết: Hoa sen ấy
chẳng phải sức của tôi có thể làm được như vậy đâu!
Vua hỏi rằng: -Nếu không phải Đại
sư làm, thì ai làm?
Người Tiên tâu rằng:
-Tâu Đại vương! Đó là người Tiên ở hang
phía Nam, có sinh được một người con gái, dung mạo đoan chính, nhân
tướng vẹn toàn, thế gian hiếm có, người con gái ấy mỗi khi
đi, tùy theo dấu chân, cất bước tới đâu, đều sinh ra hoa
sen.
Vua nghe thấy lời nói ấy, lòng
sinh vui mừng, liền đến hang phía Nam, coi thấy người Tiên ấy, Vua tỏ
lòng cung kính, đầu mặt lễ xuống chân.
Bấy giờ, người Tiên ở hang phía Nam, liền
ra hỏi thăm:
-Đại vương đi đường trường xa xôi, có khỏi mệt
mỏi lắm chăng?
Bấy giờ, Đại vương bảo người
Tiên ấy rằng:
-Nghe thấy Ngài có người con gái, trẫm
muốn cầu hôn được chăng?
Bấy giờ người Tiên, tâu Đại vương rằng:
-Thân nghèo này chỉ có một người con gái
ấy, hãy còn thơ ấu, chưa hiểu biết gì cả, từ hồi nhỏ đến
nay, thường ở nơi thâm sơn, ăn trái cây, mặc áo cỏ, chưa quen biết gì
về những việc ở nhân gian, như thế thì làm sao mà Vua có thể đoái
thương được?
Rồi người Tiên ấy lại thuật hết những tư
sự của người con gái ấy là do súc sinh sinh ra như trên, để cho Vua
nghe.
Vua nói: -Tuy vậy cũng không hề gì.
Vua lại hỏi: -Lộc Nữ hiện giờ ở
đâu?
Người Tiên tâu rằng: -Tâu Đại vương! Lộc
Nữ hiện đang ở trong hang cỏ này.
Bấy giờ Đại vương liền vào
trong hang, coi thấy Lộc Nữ lòng sinh ra vui mừng, liền cho lấy nước
thơm tắm rửa cho Lộc Nữ, và đem các thứ y phục tốt đẹp, trăm thứ
tràng ngọc quý báu, để trang sức cho nàng xong rồi, cưỡi voi quý, cùng với
trăm ngàn người theo hầu, trổi nhạc ca hát, trở về bản quốc.
Lúc đó Lộc Nữ, vì từ khi sinh ra đến
nay chưa từng thấy như thế bao giờ, nên trong lòng sinh ra sợ hãi.
Bấy giờ cha của Lộc Nữ, đứng ở trên đỉnh
núi cao, xa trông thấy con, nhìn mãi không thôi và tự nghĩ rằng:
-Ta nay nhìn theo con gái ta cho đến khi
nào đi thật xa, không còn có thể coi thấy được nữa, lúc ấy ta mới trở
về chỗ cũ, ông buồn rầu áo não, nước mắt tuôn trào: Ta sinh được
đứa con gái này, hãy còn thơ ấu, chưa hiểu biết gì, mà nay đã phải cách
biệt ta! Ông lại nghĩ rằng: Ta nay nên ở lại chỗ này, mà không nên đi đâu,
bởi vì sao? -Nếu như con gái ta trở lại đây, mà không thấy ta, tất
nhiên con ta sinh ra buồn rầu khổ não.
Người Tiên ấy cứ đứng trông chờ con
mãi, nhưng trọn cũng không thấy con trở về.
Bấy giờ, ông sinh lòng hối hận nói
rằng:
-Thực quả là loài giống súc sinh có
khác! Ta nuôi nấng từ hồi còn bé, khiến cho được thành người, nay sinh lòng bội
bạc, bỏ ta cô độc!
Ông liền vào trong hang, tụng trì chú
thuật, chú nguyện cho người con gái đó rằng:
-Nếu như Vua ăn ở bạc đãi với
con, thì không cần phải bàn đến, còn như Vua lấy lễ mà tiếp đãi con
sẽ khiến cho con không được toại nguyện.
Bấy giờ Vua nước Ba La Nại, sau khi trở
về cung điện rồi, liền phong Lộc Nữ làm đệ nhất phu nhân, gọi
là Lộc Mẫu phu nhân. Các tiểu Quốc vương, bách quan quần
thần, đều lại triều giá. Vua thấy vậy rồi, lòng sinh vui mừng.
Ít lâu sau, Lộc Mẫu mang
thai. Vua tự cung dưỡng cho phu nhân giường nằm, thức
ăn uống, không thiếu một thứ gì, lòng Vua chỉ mong đến kỳ khai hoa nở nhụy,
sẽ sinh hoàng nam, để kế thừa quốc vị.
Nhưng tới ngày đầy tháng đủ, lại sinh ra
một bông hoa sen. Vì năng lực chú nguyện của người
Tiên, nên khiến cho nhà Vua sinh ra giận tức, nói rằng:
-Quả thực là loài súc sinh, sinh ra
có khác!
Vua liền thoái chức phu nhân còn
bông hoa sen, thì sai người đem liệng bỏ.
Sau đó vài ngày, Vua nước Ba La Nại,
cùng với các quần thần vào trong hậu viên du ngoạn xem xét hát
xướng, đấu voi, ngựa, cùng với các người lực sĩ, trong đó có một người đệ
nhất lực sĩ, rún rẩy nhẩy nhót, vì chân dẫm đạp xuống đất, nên đất đều
rúng động, và làm động cả ao hoa sen. Bên ao hoa sen đó, có
cái bảo khí rất lớn, ở phía dưới bảo khí ấy, có một bông hoa sen, nổi trên
mặt nước. Hoa sen màu hồng, tỏa ra ánh sáng mầu nhiệm. Vua
coi thấy hoa sen ấy rồi, lòng sinh vui mừng, hỏi quần thần rằng:
-Hoa sen như thế này, thực chưa từng có
vậy.
Vua liền sai Sứ giả xuống ao lấy. Hoa
có đủ năm trăm cánh, dưới mỗi cánh hoa, có một người đồng tử, mặt
mày đoan chính, hình dáng tốt đẹp lạ thường.
Bấy giờ Sứ giả, liền tâu với Vua rằng:
-Hoa sen nầy thực chưa từng có vậy! Đại
vương nên biết: Hoa sen ấy có đủ năm trăm cánh, ở dưới mỗi cánh
hoa, lại có một người đồng tử.
Vua nghe lời Sứ giả nói,
lòng sinh kinh ngạc, dựng cả chân lông, khen ngợi sự thể làm
sao mà lại có được như thế, và hỏi Sứ giả rằng:
-Có thực quả như vậy chăng? Hoa sen ấy
phải do Lộc Mẫu sinh ra chăng?
Vua lại hỏi các đồng tử, đồng
nữ theo hầu:
-Hoa sen trước đây do Lộc Mẫu sinh
ra đem bỏ ở chỗ nào?
Đáp rằng: -Tâu Đại vương! Chính hoa
sen ấy, lúc đó chôn ở dưới cái bảo khí, bên bờ ao này vậy.
Vua biết rõ sự thực đó, và chính hoa
sen ấy là do Lộc Mẫu phu nhân sinh ra. Vua tự vào
trong cung, hướng Lộc mẫu phu nhân, ăn năn tự trách, nói rằng:
-Ta thực là người ngu si, không
có trí tuệ, chẳng phân biệt được người hiền lương, nên làm
những sự oan uổng tàn ác, trái nghịch đối với phu nhân!
Vua tỏ bày sự ăn năn hối
hận với phu nhân xong rồi, phu nhân lại được phục
hồi địa vị cũ là đệ nhất Phu nhân như xưa.
Vua rất vui mừng, và cho triệu
các quan Đại thần, các Vua ở các nước nhỏ, và các Tướng sư người Bà
la môn, tất cả đều hội họp. Vua bồng năm trăm Thái tử, khiến
các Tướng sư, xem tướng cho các Hoàng tử.
Các Tướng sư đoán rằng: -Các
Hoàng tử là người rất có phúc đức, nếu ở tại gia, thì bốn bể sẽ được
hưởng cảnh thanh bình thịnh trị, quỷ thần hộ vệ, nếu xuất
gia, quyết sẽ đoạn phiền não, qua dòng ái dục, vượt bể sinh tử,
chứng được pháp Tam minh, Lục thông và đủ bốn đạo quả.
Vua nghe lời các Tướng sư nói rất
đỗi vui mừng, liền truyền lệnh khắp trong nước, tuyển chọn năm trăm nhũ mẫu,
để trông coi cho các Hoàng tử.
Bấy giờ Lộc Mẫu phu nhân tâu
với Đại vương rằng:
-Vua không phải lo ngại, triệu các nhũ mẫu
ở trong nước làm gì, vì ở trong Vương cung đã có năm trăm phu nhân,
các phu nhân ấy, thấy thần thiếp sinh Hoàng nam, nên sinh lòng
ghen ghét, nay Vua nên cho mỗi phu nhân một Thái tử, để
nuôi nấng, cũng như con của các phu nhân vậy.
Vua bảo phu nhân:
-Năm trăm phu nhân, thường
mang lòng ghen ghét, não hại Lộc Mẫu, nay Lộc Mẫu muốn
ta đánh bằng roi gậy, hoặc đuổi đi, hay xử tử để đền lại những tội ác trước
đây đối với phu nhân, ta cũng sẽ không trái ý của phu nhân, nhưng
nay phu nhân lại bỏ qua những sự oán hận ấy, thì thực quả
là khó có ai sánh kịp! Lại còn mở cái ân huệ như trời như đất:
Đem Thái tử cho các phu nhân ấy nuôi…
Bấy giờ năm trăm phu nhân lòng
rất vui mừng: Lộc Mẫu phu nhân cho chúng ta những
sự an ổn khoái lạc, lại còn cho chúng ta Thái tử nữa.
Bấy giờ vô lượng trăm ngàn đại chúng được nghe việc ấy rồi,
lòng sinh vui mừng, và đều phát Vô thượng đạo tâm.
Bấy giờ Đại vương bảo phu
nhân rằng:
-Thực chưa từng có vậy, ta cũng không
sánh kịp với phu nhân!
Phu nhân nói:
-Tham lam giận tức, đều do ghen
ghét, hãy lấy nhẫn nhục để trừ gian ác, lấy hòa thuận để
thắng oán thù. Thần thiếp từ khi sinh cho đến nay, chưa từng tranh
giành với ai, các phu nhân, tự sinh não hại, ví như có
người đi ban đêm, coi thấy gốc cây, liền tưởng là giặc, hoặc tưởng là ác
quỷ, nên lòng sinh ra kinh sợ, chạy tản mác ra bốn phương, hoặc trốn vào
trong hang núi, hoặc vào trong nước, lửa, rừng rậm gai góc, bị tổn
thương đến cả thân thể, nhân vọng tưởng, mà phải họa hại đến
như thế!
Tất cả chúng sinh, cũng lại như thế:
Tự sinh tự tử, như con tằm vương tơ, lại tự quấn lấy mình, như con thiêu thân tự
gieo mình vào đèn lửa, mà không phải do ai xua đuổi chúng ta!
Tất cả điều ác, đều từ vọng tưởng sinh
ra, các phu nhân cũng lại như thế, nên thần thiếp nay không muốn cùng
tranh tụng với những người ngu si ấy.
Năm trăm phu nhân, liền đến trước Lộc
Mẫu phu nhân, ăn năn tự tạ, thờ phụng Lộc Mẫu, như bậc thánh
hiền, như tình chị em, và nuôi nấng các Thái tử, cũng không khác gì con của
mình sinh ra.
Lúc ấy năm trăm Thái tử, dần
dần khôn lớn, mỗi mỗi Thái tử, sức có thể địch nổi ngàn người, các nước
lân bang nếu gây sự phản nghịch không chịu tuân phục, tự các Thái tử đến
dẹp loạn mà không cần đến bốn binh. Vì thế mà cõi nước được thanh
bình, thiên thần vui mừng hộ vệ, mưa gió thuận hòa, nhân
dân thịnh vượng. Lúc ấy, năm trăm Thái tử, cưỡi con đại
danh tượng, ra du ngoạn nơi lâm dã, tự tại khoái lạc vô
lượng, cha mẹ yêu dấu, khác nào con ngươi mắt của mình.
Bấy giờ, năm trăm Thái tử tuổi
đã dần khôn lớn, nhân một hôm cùng nhau ngồi chơi ở bên bờ ao hoa sen, coi
thấy hình dung của mình, ảnh hiện ở dưới đáy nước.
Lúc đó các Thái tử cùng bảo với
nhau rằng: “Tất cả các pháp cũng chẳng khác nào như trò huyễn thuật,
như hoa đốm trên không, như cảnh tượng thấy trong giấc chiêm
bao, như bóng hình dưới đáy nước, thể tính vốn không phải là chân
thực, lũ chúng ta ngày nay cũng lại như thế, tuy nhiên chúng
ta ở vào địa vị tôn sang hào quý, sống trong cảnh thâm cung hưởng
thụ năm sự dục lạc, trẻ trung đẹp đẽ, rốt cuộc cũng không
thể nào giữ được lâu, vạn vật có thành tất phải có hoại, người ta
sinh rồi cũng phải chết, trẻ khỏe không được bao lâu, mà già nua sẽ tới, ăn
uống không tiết độ, tất nhiên bệnh hoạn phát sinh, dù cho sống
lâu đến trăm tuổi, rồi cũng phải chết.”
Các Thái tử tỏ vẻ rất lo buồn không
vui, quên cả ăn uống, liền cùng nhau trở về cung điện, thưa
cùng cha mẹ rằng:
-Thưa cha mẹ! Thế giới đều là
khổ, không có gì đáng vui, nay xin cha mẹ cho chúng con được xuất
gia.
Vua bảo Thái tử:
-Sinh, lão, bệnh, tử, không một ai có thể tránh
khỏi được, việc gì mà riêng con phải sầu muộn.
Các Thái tử tâu với Vua cha rằng:
-Sự sinh tử chẳng phải riêng
con phải chịu nhọc nhằn, mà khắp cả năm ngả chúng sinh cũng đều phải
chịu như thế cả.
Vua biết không thể nào ngăn cản được
chí xuất gia của các Thái tử, nên Ngài cũng bằng lòng cho
các Thái tử xuất gia.
Mẫu hậu bảo các Thái tử rằng:
-Các con xuất gia, chớ nên bỏ ta đi
xa, mà nên ở nơi hậu viên, trong đó rất mát mẻ, rừng cây tươi tốt, bốn việc
cúng dàng không thiếu.
Lúc ấy các Thái tử, liền
đi xuất gia, và vâng lời của Mẫu hậu đều ở nơi hậu viên.
Sau khi xuất gia, mỗi mỗi Thái
tử, đều chứng được quả vị Phật Bích Chi, như thế cho đến vị Thái
tử thứ bốn trăm chín mươi chín đều được đạo quả.
Chứng được đạo quả rồi, các Thái tử liền đến trước cha
mẹ, báo cho cha mẹ biết: Lợi ích của sự xuất gia, nay
chúng con đã thành được.
Lúc ấy, các Tỳ khưu, thân tự thăng lên
trên hư không, hiện đằng đông ẩn đằng tây; ẩn đằng tây hiện đằng đông; hiện
đằng nam ẩn đằng bắc; hiện đằng bắc ẩn đằng nam; hoặc hiện làm nhiều thân
hình lớn, khắp đầy trong hư không, rồi lại hiện làm một thân, một
thân lại hiện làm vô lượng thân; hoặc hiện trên thân ra nước, dưới
thân ra lửa.
Sau khi các Thái tử đã
vì cha mẹ, hiện thứ thứ thần biến rồi, liền tự thiêu thân
mà nhập Niết Bàn.
Lúc ấy Lộc Mẫu phu nhân thâu
nhặt thân cốt, xây bốn trăm chín mươi chín cái tháp ở trong hậu viên để cúng
dàng.
Người con út, qua chín mươi ngày sau,
cũng chứng được quả vị Bích Chi Phật, cũng vì cha mẹ, hiện
đại thần biến. Hiện thần biến rồi, liền nhập Niết Bàn.
Bấy giờ mẹ của Thái Tử thu thập
thân cốt, xây tháp cúng dàng.
Bấy giờ Lộc Mẫu phu nhân, đốt
các thứ hương thơm quý, trổi các thứ âm nhạc mầu nhiệm, ngày ngày ở
trong hậu viên cúng dàng năm trăm tháp Phật Bích Chi. Phu nhân ở trước
các tháp ấy, tỏ vẻ buồn rầu không vui, mà nói rằng: “Ta tuy sinh
năm trăm Thái tử, mà không có một người nào, phát tâm Bồ Đề.”
Phu nhân liền lập thệ nguyện:
-Ta cúng dàng năm trăm Phật Bích Chi, gồm
xây năm trăm tháp cúng dàng công đức, của Xá lợi, xin hồi hướng cho
khắp tất cả chúng sinh, khiến ta đời sau, thà sinh một con, mà phát
tâm Bồ Đề, hiện thế xuất gia, chứng được nhất thiết trí,
còn hơn sinh nhiều con, mà không phát tâm Bồ Đề.
Phật bảo với ngài A Nan rằng:
-Lộc Mẫu phu nhân lúc ấy, nay
là Ma Gia phu nhân. Ma Gia phu nhân cúng dàng năm trăm
Phật Bích Chi, và tu vô lượng thiện nghiệp, cho nên ngày nay được sinh
thành thân của Như Lai.
Khi Phật nói pháp ấy, có vô lượng trăm
ngàn người, trời, chứng được sơ quả, cho đến tứ quả; có vô
lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bấy giờ tôn giả A Nam bạch
Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Đức Ma Gia phu
nhân đời quá khứ, làm hạnh nghiệp gì, mà phải sinh trong loài súc
sinh, làm thân Lộc Nữ?
Phật bảo Ngài A Nam rằng:
-Nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông, phân biệt giải
nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma Gia phu
nhân.
-Đời quá khứ lâu xa, vô
lượng a tăng kỳ kiếp, bấy giờ đó có một Đức Phật ra đời, hiệu
là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giáo hóa.
Sau khi diệt độ, trong thời kỳ tượng
pháp, lúc ấy có một nước nọ, gọi là Ba La Nại, trong nước đó có
một Bà La Môn, chỉ sinh hạ được một người con gái. Sau khi cha của
nàng chết, để lại nàng cho mẹ nàng nuôi nấng cho đến khi khôn lớn. Nhà
có một cái vườn trái, nên mẹ nàng thường để nàng ở nhà để trông coi, còn
bà thì đi kiếm ăn để nuôi mình, và nuôi con. Ngày ngày theo thường lệ; bà
vẫn đem thức ăn về cho con ăn. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm
trễ của mẹ nàng, chưa kịp đem về cho nàng, hơn nữa vì sự đói khát bức
bách, nên nàng sinh ra tức giận nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì, mà
không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này?
Và vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc
đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn nói rằng:
-Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc
sinh; ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói
khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ nữa là mẹ ta!
Nhưng thời gian không bao lâu,
mẹ nàng đã đem thức ăn về cho nàng ăn.
Đang lúc toan ăn uống, thì có
một vị Sa môn Bích Chi Phật, từ phía Nam bay qua phía Bắc.
Lúc ấy, người con gái Bà La Môn thấy
vị Tỷ Khưu ấy, lòng sinh ra vui mừng, liền đứng dậy, chấp tay,
cúi đầu làm lễ, trải tòa thỉnh mời Ngài ngồi, rồi lại lấy những
bông hoa tươi tốt, giảm phần ăn của mình, để cúng dàng vị Tỷ Khưu.
Vị Tỷ Khưu ăn xong rồi, lại vì người con
gái ấy, thuyết pháp chỉ dạy, kiến cho được những sự lợi ích, vui
mừng.
Bấy giờ, người con gái đó liền phát
nguyện rằng:
-Nguyện tôi đời sau, được gặp gỡ những
bật hiền thánh, lễ bái, cúng dàng, khiến cho tôi được nhan sắc tốt
đẹp, tôn vinh hòa quý, nếu khi dạo đi đến đâu, hoa sen sẽ mọc theo
dấu chân đi.
Phật bảo tôn giả A Nan:
-Người con gái lúc bấy giờ, về sau
là Lộc Mẫu phu nhân, bởi cúng dàng vị Phật Bích Chi một bữa ăn,
và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phúc báo tôn vinh hào
quý, y phục thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới
đâu, lại có hoa sen mọc theo dấu chân đi, vì có nhân
duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Phật Bích Chi, lễ bái cúng
dàng, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ:
Chẳng bằng loài súc sinh, mà trong năm trăm kiếp, phải sinh làm loài hươu.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng
mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh
có đốt cháy, cũng chỉ đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác
khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy trong vô số kiếp, lửa mạnh đốt cháy
chỉ đốt cháy được của cải của thế gian, còn như lời nói ác
khẩu đốt cháy, sẽ đốt cháy cả bảy thứ của cải của Thánh
nhân.
Vì thế A Nan! Tất cả chúng sinh, họa
từ trong miệng mà sinh ra. Vả miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình,
là cái họa để tự diệt mình vậy.
Khi Phật nói kinh này, có ngàn Ưu
Bà Tắc, Ưu Bà Di, biết giữ gìn tội lỗi của khẩu nghiệp,
liền chứng được sơ quả, lại có vô lượng Tỷ Khưu, Tỷ Khưu Ni, chứng
được sơ quả, cho đến tứ quả, vô lượng nhân thiên đều phát
tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho đến tâm Bích Chi
Phật, tất cả đại chúng, nghe Phật thuyết pháp đều hoan hỷ vâng
theo, rồi làm lễ Phật mà lui ra.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với
Ngài A Nan, vào thành Vương Xá khuất thực.
Khi trở về đến ngoài thành, thấy
có một vũng nước rất lớn và sâu, nên người ở trong thành Vương Xá, thường
đem những thứ đại tiểu tiện ô uế, đổ bỏ vào trong cái vũng ấy, và khi
trời mưa thì tất cả nước dơ dáy ở khắp các nơi cũng chảy dồn cả vào trong vũng
đó.
Lúc ấy, ở trong vũng nước đó, có một con
đại trùng, hình thù giống như người, nhưng chân tay lại rất nhiều. Con đại
trùng ấy xa coi thấy Đức Như Lai, liền ngóc đầu lên khỏi mặt nước, trông
nhìn Đức Như Lai, mà nước mắt tuôn trào.
Đức Như Lai coi thấy rồi, Ngài rất
tỏ vẻ thảm thương không vui, liền trở về núi Kỳ Xà Quật.
Bấy giờ Ngài A Nan trải tọa
cụ. Đức Như Lai ngồi kết già phu ở trên trên tọa cụ ấy.
Lúc đó Ngài A Nan quan sát tâm
của đại chúng rồi, liền hỏi Đức Như Lai rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Con trùng ở trong vũng
nước vừa rồi coi thấy đó, đời trước làm nghiệp ác gì mà phải sinh ở
trong cái vũng nước ấy? Với thời gian là bao nhiêu? Và đến thời nào mới
được giải thoát?
Phật bảo Ngài A Nan và
các đại chúng rằng: -Các ông nên nghe cho kỹ, ta sẽ vì các ông nói việc
ấy.
A Nan! Về đời quá khứ, vô lượng nghìn
kiếp, bấy giờ có Đức Phật ra đời, giáo hóa chúng sinh đã
chu viên rồi, Ngài nhập diệt Niết Bàn.
Sau khi Phật diệt độ, ở
trong thời tượng pháp, có một người Bà La Môn, lập tịnh thất cúng
dàng chúng tăng. Nhân có một người đàn việt, thường dâng dầu tô
để cúng dàng chúng tăng.
Lúc ấy có khách Tỷ Khưu tới, vị Duy
Na thấy vậy, sinh lòng giận tức, hiềm khách Tăng tới, nên đem giấu giếm tất
cả những thứ dầu tô ấy mà không cho khách Tăng.
Khách Tăng mới nói rằng: -Sao Ngài không
đem vị dầu tô để cúng dàng chúng Tăng?
Vị Duy Na đáp rằng:-Vì ông là
Khách Tăng, tôi là cựu trụ, vì thế mà tôi không cúng dàng.
Tỷ Khưu khách nói rằng: -Đó là đàn
việt cúng dàng Tăng hiện tiền.
Lúc ấy, người Duy Na kia, lộ vẻ
hung ác đáng sợ, liềm mắng khách Tăng rằng:
-Sao ông không ăn phẩm giải mà lại cứ
theo tôi đòi vị tô đó hoài vậy?
Bởi lời nói ác ấy, cho nên từ
khi ấy đến nay, đã trải qua mười ức kiếp, thường phải sinh
trong vũng phân. Người Duy Na lúc bấy giờ, nay là con trùng ở trong
vũng nước ấy. Do đời quá khứ, phát ra một lời nói ác, hủy mắng chúng
Tăng, mà trải vô lượng kiếp cứ phải sinh vào nơi phân giải nhơ
nhớp!
Phật bảo các đệ tử rằng:
-Nên phải giữ gìn khẩu nghiệp,
cái họa hoạn của khẩu nghiệp hơn cả lửa mạnh. Đối với cha mẹ, chúng
Tăng, nên phải đem lòng cung kính cúng dàng, nói lời như hòa khen ngợi,
thường nghĩ đến ân đức của các vị đó. Chúng Tăng là ruộng
phúc, đã ra khỏi ba cõi; còn cha mẹ là ruộng phúc tối thắng trong ba
cõi. Vì sao? –Vì trong chúng Tăng gồm có bốn quả, bốn
hướng, mười hai bậc hiền sĩ, người nào cúng dàng các bậc ấy sẽ được hưởng
phúc vô lượng, không những như vậy, nếu tinh tiến tu hành không
thoái tâm, thì còn được thành Phật đạo nữa vậy.
Đối với cha mẹ, mười tháng cưu
mang, ướt mẹ nằm, ráo để nhường con, bú mớm nuôi con đến ngày lớn khôn, dạy
bảo cho con biết nghề nghiệp, tùy thời nuôi nấng, lại cho
đi xuất gia, tu hành được giải thoát, qua khỏi được bờ sinh
tử, làm lợi ích cho mình, và cho tất cả chúng sinh.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng
phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân cõi
Thiên, Niết Bàn giải thoát, cũng do đó mà được thành tựu vậy!
Khi Phật nói Kinh này, có vô số lượng
trăm ngàn chúng sinh, Nhân, và Phi nhân, hoặc được Sơ quả, cho
đến Tứ quả, hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc phát
tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, tất cả ai nấy đều chấp
tay lễ Phật, quanh về phía bên phải, vui mừng mà lui ra.
Lại nữa, ở nước Ba La Nại, có một
người Thừa Tướng Bà La Môm nhà rất giàu có, của cải châu
báu,vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, voi, ngựa, trâu, dê, ruộng,
vườn, tôi tớ, không thiếu một thứ gì, đã quá tám mươi tuổi, mới sinh được một
người con trai, đẹp đẽ đoan chính, nhân tướng vẹn
toàn, cha mẹ rất vui mừng, mời các tướng sư, để xem tướng và
đặt tên cho con là Quân Đề.
Quân Đề lên mười tuổi, cha mẹ rất
yêu quý nên cùng nhau tìm đến chỗ Đức Như Lai ở núi Sái đề lợi
nhân đề la, xin cho Quân Đề được theo Phật xuất gia.
Bấy giờ Đức Như Lai bốn chúng vây
quanh, Ngài đang vì đại chúng Chư thiên, Long, Quỷ thần, quảng
diễn về thế luận, và các pháp xuất thế gian.
Lúc ấy, người Bà La Môn, bạch
Phật rằng:
-Lạy Đức Thế Tôn! Con nay tuổi đã về
già, mới sinh được một người con này, xin Đức Thế Tôn là bậc Đại
từ, thương xót che chở tất cả, nay con xin đem người con này của
con đến, mong được Phật độ cho xuất gia làm đệ tử Phật.
Phật bảo:
-Hay lắm Tỷ Khưu! Phật bảo như
vậy rồi, tức thì râu tóc tự nhiên rụng hết, áo cà sa thấy mặc
vào mình. Rồi Phật vì nói pháp, chỉ bày dạy bảo, khiến cho được những
sự lợi ích nên sinh lòng vui mừng, liền chứng được đạo quả,
ba minh, sáu thông và đủ tám thứ giải thoát.
Bấy giờ Ngài A Nan, quan sát tâm
của đại chúng, đều thấy có sự nghi ngờ, nên Ngài liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, chỉnh y phục, để hở vai áo bên phải, chấp tay cung kính bạch
Phật rằng:
-Bạch lạy Đức Thế Tôn! Sa Di Quân
Đề quá khứ làm công đức gì? Tu hành nghiệp gì, mà nay
được gặp gỡ Đức Thế Tôn, lại được chứng đạo quả, sao mà mau chóng như
thế?
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Sa Di Quân Đề, không phải mới ngày
nay tu hành mà đã được như vậy đâu, mà do đời quá khứ đã từng
cúng dàng cha mẹ chúng Tăng, tu các công đức nhiệm mầu, nên
nay gặp được Thiện tri thức, lại được chứng đạo quả.
Ngài A Nan bạch Phật rằng:
-Kính xin Phật nói cho đại chúng được biết.
Phật bảo Ngài A Nan: -Nghe cho
kỹ, ta sẽ nói cho ông được rõ:
Ở về đời quá khứ, vô lượng ngàn
năm, có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, tại thế giáo
hóa, làm lợi ích cho cõi trời, cõi người. Hóa duyên đã viên
mãn, liền nhập Niết Bàn.
Sau khi Phật diệt độ, ở trong
đời chính pháp có một vị Tỷ Khưu tuổi trể, thông suốt cả ba
tạng: Tạng A Tỳ Đàm, Tạng Tỳ Ni, Tạng Tu Đa La. Diện mạo tốt
đẹp, nhân tướng đầy đủ, giọng tiếng trong trẻo mầu nhiệm,
lại rất thông minh, biện bác, thuyết pháp tài giỏi, cho nên
được nhiều người quen biết, lại được cả nhà Vua, và những người Bà La
Môn cung kính cúng dàng.
Lúc ấy có một vị Tỷ Khưu già, thân
hình xấu xí, nhân tướng bất cụ, hơn nữa giọng tiếng lại không được
tốt, nhưng thường ưa đọc tụng tán thán công đức của Tam
Bảo.
Bấy giờ, vị Tam Tạng Tỷ
Khưu tuổi trẻ, thấy vị Tỷ Khưu già, giọng tiếng không được tốt, liền sinh
tâm hủy nhục, mà nói rằng:
-Giọng tiếng như thế, chẳng khác gì tiếng
chó sủa!
Lúc đó vị Tỷ Khưu già nói rằng:
-Sao ngươi lại hủy nhục ta như vậy?
Ngươi có biết ta chăng?
Vị Tam Tạng Tỷ khưu tuổi
trẻ nói rằng:
-Tôi có biết ông chớ, ông là người Tỷ
Khưu già Ma Ha La, trong thời kỳ chính pháp của Phật Tỳ
Bà Thi, sao tôi lại không biết?
Ma Ha La nói:
-Ta nay chỗ sở tác đã
xong, phạm hạnh đã lập, và không còn phải chịu thân sinh tử hậu
hữu nữa.
Vì Tam Tạng Tỷ Khưu tuổi
trẻ nghe nói rồi, lòng sinh kinh hãi, dựng cả chân lông.
Bấy giờ Ma Ha La, liền đưa tay bên
phải phóng ra ánh sáng hào quang rất lớn soi khắp cả mười phương.
Bấy giờ Tam Tạng, liền cúi đầu lễ
bái, cầu xin sám hối:
-Tôi là người ngu si, không biết phân
biệt Hiền Thánh, nên gây ra nghiệp ác ấy, xin cho tôi đời
sau, được gần gũi bạn lành gặp gỡ Thánh sư, bao nhiêu phiền não đều
được sạch hết, cũng như Đại Đức.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Tam Tạng Tỷ Khưu trẻ tuổi ấy, vì một lời
nói ác hủy mắng Thượng Tọa, mà sau trong năn trăm kiếp, thường phải quả
báo làm thân chó.
Tất cả đại chúng, nghe Phật nói
pháp, đều kinh sợ hãi hùng, và đều phát ra tiếng nói rằng:
-Gớm thay! Gớm thay! Thế gian độc
họa, không gì nặng hơn ác khẩu!
Bấy giờ vô lượng trăm ngàn người,
đều lập thệ nguyện, mà nói kệ rằng:
-Thà lấy vòng sắt nóng nung đốt, vòng
vào đầu tôi, tôi trọn không bao giờ dùng lời độc ác hủy báng Hiền
Thánh Thiện Nhân.
Phật bảo Ngài A Nan và Xá
Lợi Phất:
-Đối với các chúng sinh, là người Thiện
tri thức, ngày đêm sáu thời, thường dùng đạo nhãn, xem xétchúng
sinh ở trong năm ngả, người nên hóa độ cho họ, cần phải đến hóa
độ.
Bấy giờ, khoảng giữa hai nước Ma Kiệt
Đà và nước Xá Vệ, có năm trăm người khách buôn, phải đi ngang qua một con
đường rất nguy hiểm. Lúc đó, người chủ buôn, có mang theo một
con chó.
Bấy giờ người bạn của chủ buôn, vào lúc
chập tối, có nấu thịt, để làm thức ăn, tới khua, con chó ấy ăn vụng hết. Sáng
mai người chủ buôn, và bạn của ông, định lấy thịt ra để ăn, thì biết là chó
đã ăn vụng đêm hôm qua hết rồi! Đang gặp lúc đói khát bức
bách, nên họ sinh ra giận tức, liền cầm dao chặt đứt bốn chân của con chó,
quăng xác xuống hố rồi cùng nhau bỏ đi nơi khác. Con chó bị đau
đớn quằn quại ở dưới hố trông rất là thảm thiết.
Lúc ấy, Ngài Xá Lợi Phất, vào lúc
chập tối, dùng đạo nhỡn, đằng xa coi thấy rõ sự thể ấy rồi, nên đến sớm
mai, Ngài liền mặc áo mang bát vào trong thành khuất thực xong, Ngài liền đi
thẳng đến chỗ con chó, đem thức ăn cho con chó ăn, rồi lại vì
nói pháp, chỉ bày dạy bảo, khiến cho được những sự lợi ích, nên sinh
ra lòng vui mừng. Con chó ấy nghe pháp rồi, thẹn hổ không
vui. Sau bảy ngày tội hết được thoát làm kiếp chó, sinh lên làm người.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
-Con chó lúc ấy, nay là ông Sa
Di Quân Đề này. Do đời quá khứ, hủy báng Hiền Thánh,
mà phải đọa lạc vào đường ác, nhưng vì biết ăn năn, thẹn hổ cải
hối, và phát thệ nguyện ấy, cho nên nay được gặp thiện hữu, vì
được gặp thiện hữu nên nay được thoát thân làm kiếp chó
sanh lên làm người được gặp Phật, giải thoát sinh tử phiền não.
Phật bảo Ngài A Nan:
-Nên phải nghĩ nhớ đến ân đức của cha
mẹ, Thiện hữu. Cho nên người biết ơn, thường nên phải trả
ơn. Thiện tri thức là đại nhân duyên.
Khi Phật nói pháp ấy, có vô lượng trăm
ngàn chúng sinh, phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác, cho
nên đến tâm Thanh Vân, Bích Chi Phật, tất cả đại chúng nghe Phật
nói Pháp rồi đều vui mừng hớn hở, làm lễ Phật mà lui trở
ra.
Comments
Post a Comment