KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN
Dịch giả:
Thích Chính Tiến - Thích Quảng Độ
PL. 2506 - 1962
PHẨM TỪ BI THỨ BẢY
Lúc đó đại chúng vây quanh đức Thế Tôn, cúng dàng, cung
kính, tôn trọng tán thán.
Khi ấy Đức Như Lai vì muốn cứu chúng
sinhkhỏi cái khổ trong ba cõi, tiêu trừ năm món phiền não và mười
điều ràng buộc, khiến hết thảy chúng sinh đều được giải thoát vào
cảnh Niết Bàn yên vui nên Ngài mới mở lòng từ bi sâu
xa mà chỉ bày hai thứ ruộng phúc:
Một là ruộng phúc hữu vi; hai là ruộng
phúc vô vi. Ruộng phúc hữu vi là cha mẹ; ruộng
phúc vô vi là Sư trưởng, Chư Phật, Pháp, Tăng và các vị Bồ
Tát. Nếu chúng sinh hết lòng phụng dưỡng cúng dàng, sẽ được phúc
báo và có thể tiến đến thành đạo Bồ Đề.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá
Lợi Phất, các vị đại đệ tử và các hàng Bồ Tát rằng: “Các
ông nên biết, chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết Bàn.” Khi
nghe Phật nói như thế, Ngài Xá Lợi Phất cảm thấy thân thể rụng
rời, đau đớn như cắt, buồn rầu, thương xót quá đến ngất
đi và ngã xuống đất.
Người xung quanh lấy nước lạnh
rửa mặt cho Ngài, hồi lâu mới tỉnh. Ngài liền đứng dậy, chấp tay,
đọc bài kệ ca khen ngợi công đức của Phật rằng:
Phật như nhạc cõi trời,
Nghe không bao giờ chán,
Phật sắp nhập Niết Bàn,
Hết thảy đều mất lợi.
Bể sinh tử năm ngả,
Ví như vũng bùn nhơ,
Bị ái dục ràng buộc,
Ngu si không xa lìa.
Kiếp xưa tu chính đạo,
Bố thí không phân biệt
Từ lông mi phóng quang,
Soi tỏ không hạng định,
Mắt tựa ánh trăng rằm,
Chiếu khắp mười phương cõi,
Khiến chúng sinh trông thấy,
Hết thảy đều vui mừng.
Nói trăm nghìn kệ, tán thán Phật
xong, Ngài Xá Lợi Phất cúi đầu lễ chân Đức Thế Tôn, nhiễu quanh
trăm nghìn vòng, rồi nói với đại chúng và Thiên, Long, Quỷ thần,
Nhân, Phi nhân rằng:
“Nầy các Thiện nam tử! Lạ
thay! Cõi thế gian này trở thành hư không, khổ thay!
Cõi thế gian này tan biến. Đau đớn thay, cõi thế gian này
nguy ngập! Cây cầu diệu pháp, nay sắp hư hoại cây đạo cao tột, nay sắp gẫy
nát cột phướn diệu bảo, nay sắp nghiên ngả; mặt trời Phật Pháp sắp
lặn núi đại Niết bàn gần ngày sụp đổ!”
Đại chúng nghe rồi, lòng sinh sợ
hãi, vô cùng kinh ngạc. Mặt trời mờ xám, núi non nghiêng
ngửa, trái đất rung động.
Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất đứng
giữa đại chúng, nói bài kệ rằng:
Tôi thấy thân tướng Phật,
Như núi vàng chói lọi,
Tướng đẹp, đủ oai đức
Danh thơm còn muôn thuở.
Nên siêng tu tinh tiến,
Để ra ngoài ba cõi,
Lựa chọn mọi nghiệp lành,
Niết Bàn vui hơn hết.
Đọc bài kệ ấy để an ủi đại
chúng rồi, Ngài Xá Lợi Phất vận dụng thần thông, bay
lên hư không, hóa thành một nghìn voi báu, đứng quyện lấy
nhau, hướng một nghìn đầu ra ngoài; mỗi con voi có bảy ngà, trên mỗi ngà có bảy
cái ao, trong mỗi ao có bảy bông sen, trên mỗi đài sen có bảy vị hóa
Phật, mỗi vị hóa Phật đều có Xá Lợi Phất đứng hầu bên cạnh;
mỗi một Xá Lợi Phất phóng ra những luồng ánh sáng lớn, chiếu khắp mười
phương vô lượng thế giới để chiêu tập những chúng sinh có
duyên với Phật pháp.
Khi những chúng sinh đó đến rồi,
Ngài Xá Lợi Phất lại hiện ra thân lớn, chật cõi hư
không, sau lại biến thân nhỏ lại mà nhẩy xuống đất; hoặc lửa trong thân bốc
cháy bừng bừng, hoặc nước trong mình phun ra cuồn cuộn, tràn ngập hư
không.
Sau khi đã hiện trăn nghìn vô số các
thứ thần biến như thế, Ngài từ trên hư không xuống, đến chỗ đại
chúng, thuyết pháp để chỉ dạy những điều lợi ích, yên vui, khiến
cho vô lượng chúng sinh mở lòng Bồ Đề.
Lại có trăm nghìn người chứng được quả Tu
Đà Hoàn cho đến đạo A La Hán và hàng ức triệu người phát
tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật.
Sau khi làm những việc lợi ích ấy
rồi, Ngài Xá Lợi Phất nói với đại chúng rằng: “Tôi sẽ không
thể yên lòng mà nhìn Đức Như Lai vào Niết Bàn.” Nói
xong liền bay lên hư không và dùng lửa thần thông, tự đốt cháy
mình mà chứng nhập Niết Bàn trước.
Khi ấy đại chúng nhìn
Ngài Xá Lợi Phất, mắt không muốn chớp, lòng sinh thương tiếc, vật
vã khóc than, mặt trời lu mờ, trái đất chuyển động. Rồi
trăm nghìn đại chúng, thu lượm Xá lợi, xây tháp cúng dàng, vây quanh
Ngài Xá Lợi Phất, đau khổ, sầu thương, lòng sinh mê man, quên mất chính
niệm.
Lúc bấy giờ Đức Như Lai dùng sức từ
bi hóa làm Xá Lợi Phất đứng giữa đại chúng. Thấy thế, mọi
người đều cùng vui mừng, những nỗi buồn khổ tiêu tan,
và hết thảy phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Lúc đó, Ngài A Nan, nhờ thần lực của
Phật, biết rõ trong lòng mọi người đều có chỗ ngờ vực, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại áo để hở vai bên phải, đầu gối bên phải quỳ sát
đất, chấp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, tại sao Ngài Xá Lợi Phất lại vội vàng nhập diệt trước đức
Thế Tôn, khiến cho đại chúng buồn rầu, đau khổ như vậy?”
Phật bảo Ngài A Nan và đại
chúng rằng: “Chẳng những ngày nay ông Xá Lợi Phất mới nhập
diệt trước Như Lai, mà ở những kiếp quá khứ xa xưa cũng
không nỡ thấy thấy ta nhập diệt trước”.
Ngài A Nan bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, trong những kiếp quá khứ Ngài Xá Lợi Phất đều nhập
diệt trước Đức Phật, vậy việc đó như thế nào, xin Đức Thế Tôn nói
cho chúng con rõ.”
Phật bảo Ngài A Nan: Ông hãy
nghe cho kỹ:
Cách đây một A tăng kỳ kiếp, bấy giờ
có nước gọi là Ba La Nại, Vua nước ấy tên là Đại Quang Minh, làm bá
chủ sáu mươi tiểu quốc và tám trăm thôn xã. Vua Đại Quang Minh vốn
có từ tâm, bố thí hết thảy, không trái ý người.
Cùng thời ấy, có một ông Vua nhỏ ở nước
láng giềng thường mang lòng oán ghét.
Vua Đại Quang Minh, hàng tháng cứ đến
ngày trai, dùng năm trăm con voi, chở các thứ châu báu của cải, áo mặc, thức
ăn đến một cái chợ lớn và ngoài bốn cửa thành để bố thí cho mọi
người.
Bấy giờ những nước thù địch và
những kẻ oán ghét thấy Vua Đại Quang Minh bố thí tất cả, không
trái ý người, liền đua nhau đến lấy các thức ăn, áo mặc, vàng bạc, châu
báu đem đi.
Khi ấy, ông Vua nhỏ nước láng giềng nghe
thấy đức bố thí của Vua Đại Quang Minh, sinh lòng ghen ghét. Ông
liền triệu tập quần thần để xem có thể đến nước Ba La Nại xin
cái đầu của Vua Đại Quang Minh. Trong đám quần thần không ai dám
lãnh sứ mạng đó.
Vua lại truyền lệnh, nói rằng: “Nếu người
nào dám sang nước Ba La Nại để xin đầu của Vua Đại Quang Minh thì
sẽ được thưởng một nghìn cân vàng.”
Lúc ấy có một người Bà La Môn xin
đi và xin nhà Vua cấp đủ lương thực cho cuộc hành trình. Nước ấy
cách Ba La Nại hơn sáu nghìn dặm, nhà Vua cung cấp đầy đủ
hành trang và giục người Bà La Môn lên đường.
Khi người Bà La Môn đến ranh
giới nước Ba La Nại, thì đất liền chấn động, chim
muông sợ hãi, bỏ chạy tứ tán, mặt trời bị che lấp, mặt
trăng thì lu mờ; các vì tinh tú mất vị trí thường,
cầu vòng đỏ, đen, trắng, ngày đêm thường hiện sao băng. Tất cả suối,
hồ, ao, giếng trong xứ đều cạn; hoa quả, cây cối tốt đẹp xanh
tươi đều trở nên khô héo.
Lúc người Bà La Môn đến
thành Ba La Nại, đứng ở ngoài cửa, thì thần giữ cửa bảo người canh gác rằng:
“Người Bà La Môn đại ác này từ phương xa đến, muốn xin đầu
Vua Đại Quang Minh, ngươi chớ cho vào”.
Người Bà La Môn phải ở ngoài cửa
thành mất bảy ngày, không thể vào được.
Một hôm, y nói với người gác cửa rằng:
“Tôi từ phương xa tới đây, muốn được yết kiến nhà Vua”.
Người gác cửa liền vào tâu Vua: “Tâu Bệ
hạ, có một người Bà La Môn từ phương xa đến, muốn được bệ kiến, hiện
đang ở ngoài cửa.”
Vua nghe thấy thế, tức tốc ra đón tiếp,
như con được gặp cha. Vua chào mừng trước rồi, hỏi rằng: “Đường xá xa xôi,
nay Ngài mới đến, Ngài có mệt mỏi lắm không?”.
Người Bà La Môn đáp: -“Tôi ở
phương xa, nghe thấy công đức nhà Vua, bố thí không trái ý
người. Thanh danh của Bệ hạ, xa gần đều ca ngợi, thật
không ngoa. Bởi thế không quản đường xa, vượt qua sông núi
đến đây, tôi muốn xin Bệ hạ một vật.”
Vua nói: -Tôi là người sẵn sàng bố
thí tất cả, Ngài cần gì, xin cứ cho biết.
Người Bà La Môn nói:
-Thực thế sao? Tôi đến đây chỉ xin cái đầu
của Bệ hạ, chớ không cần vật gì khác cả.
Vua nghe nói thế, liền tự nghĩ rằng, từ vô
thủy kiếp đến nay, ta đã bỏ bao nhiêu thân mệnh, nhưng chưa từng
bao giờ vì pháp vong thân cả; lăn lộn trong vòng sinh tử, uổng
công, mệt trí. Nay cái thân này, đã thề cùng chúng sinh, cầu đạo Bồ
Đề, nếu mà không cho thì trái với bản nguyện của ta. Nếu
không đem cái thân này mà bố thí, thì nhờ duyên gì để chứng được đạo
quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác?
Tự nghĩ thế rồi, Vua liền nói với người Bà
La Môn rằng:
-Được lắm, nhưng hãy cho tôi suy
xét một chút để tìm người phó thác ngôi Vua, phu nhân và Thái
tử, sau bảy ngày tôi sẽ dâng đầu biếu Ngài.
Bấy giờ, nhà Vua vào cung báo cho
các phu nhân biết ý định đó và tìm lời an ủi họ rằng:
“Ở đời, hết thảy ân ái đều phải
có ngày xa lìa, con người có sống thì có chết; sự nghiệp có
thành thì có bại, vạn vật tươi thắm trong mùa xuân, như thu,
đông thì tàn tạ.”
Phu nhân và Thái tử nghe
những lời ấy rồi nghẹn ngào sẽ hỏi nhà Vua rằng:
-Đại vương vì lẽ gì lại nói như vậy?
Vua đáp: -Có người Bà La Môn từ
phương xa đến đây để xin đầu của ta và ta đã hứa cho họ rồi.
Phu nhân và Thái tử nghe
xong, vật vã than khóc, đầu tóc rối bù, y phục rách nát và
tâu Vua rằng:
-Tâu Đại vương, thân mình là vật
đáng quý nhất trên đời, tại sao Đại vương lại có thể bỏ cái khó bỏ để
đem cho người khác?
Bấy giờ năm trăm vị Đại thần hỏi người Bà
La Môn rằng:
-Người dùng cái đầu máu mủ hôi
thối này làm gì?
Người Bà La Môn đáp: -Tôi chỉ
cần xin đầu, hỏi tôi làm chi?
-Ngươi đến nước ta, ta phải hỏi, và
ngươi phải trả lời.
Khi ấy người Bà La Môn cũng muốn nói
thật, nhưng lòng sinh sợ hãi, sợ các Đại thần giết chết.
Năm trăm Đại thần bảo người Bà La
Môn rằng:
-Ngươi đừng sợ hãi, chúng
ta sẽ vì Đại vương mà tha cho ngươi. Người Ba
La Môn nghèo hèn kia! Ngươi lấy cái đầu đầy máu mủ để làm
gì? Chúng ta mỗi người sẽ làm một cái đầu bằng bảy thứ báu để đổi cho
ngươi và cho ngươi tất cả các thứ cần dùng, trong bảy đời, ngươi sẽ không
phải thiếu thốn.
Người Bà La Môn nói: -Tôi
không cần dùng các thứ đó.
Bấy giờ các vị Đại thần không được thỏa
nguyện, lòng sinh khổ não, cất tiếng than khóc mà tâu Vua rằng:
-Nay Đại vương nỡ nào vì một người Bà La Môn, mà vĩnh viễn xa
lìa Tổ quốc, nhân dân, phu nhân và Thái tử?
Nhà Vua nói: -Nay ta vì các ngươi và hết
thảy chúng sinh mà xả thân bố thí.
Khi ấy có một Đại thần thấy nhà Vua
đã quyết định xả thân bố thí cho người Bà La Môn, liền
tự nghĩ rằng: “Ta nay làm sao có thể ngồi nhìn Đại vương bỏ thân
mệnh này?”. Nghĩ thế rồi, liền vào một căn phòng vắng vẻ, dùng
dao tự sát.
Lúc đó, nhà Vua đi vào vườn
sau, gọi người Bà La Môn đến, bảo rằng:
-Ngươi từ phương xa đến để xin đầu ta,
ta vì lòng từ bi thương xót ngươi, không làm trái ý ngươi. Ta
nguyện đời sau được đầu trí tuệ để bố thí cho các
ngươi.
Nói xong, Vua chắp tay lễ bái mười
phương, mà nguyện rằng: “Kính lạy chư Phật mười phương, rủ lòng thương
xót, chư đại Bồ Tát, uy thần ủng hộ, khiến cho con được thành
tựu nguyện này.”
Nguyện rồi, bảo người Ba La Môn cắt
đầu. Người Bà La Môn nói:
-Nhà Vua có sức mạnh thế kia,
nếu khi đau đớn, không chịu nổi, lại sinh hối hận mà quay lại giết
tôi thì sao? Vậy nhà Vua hãy dùng tóc tự quấn mình vào cành cây cho tôi cắt đầu.
Nhà Vua nghe nói, sinh lòng thương
xót và tự nghĩ: “Người kia già yếu, nếu không cắt được đầu ta, sẽ mất
lợi lớn.” Liền theo lời thỉnh cầu, lấy tóc tự trói mình vào cây,
rồi bảo người Bà La Môn:
-Ngươi hãy cắt đầu đặt vào tay ta, ta sẽ
trao cho ngươi.
Khi ấy, người Bà La Môn, tay cầm
dao, tiến lại gốc cây. Tức thời thần cây lấy ngón tay ấn vào đầu người Bà
La Môn, người ấy té ngất bất tỉnh.
Lúc đó Vua Đại Quang Minh bảo
thần cây rằng: “Sao ông không giúp tôi, lại gây khó khăn để cản trở phép
lành?”
Khi thần cây nghe Vua nói thế, lòng thấy khổ
não. Vua nói to lên rằng: “Lạ thay! Khổ thay! Bầu trời xanh ngắt mà lại
mưa máu, trái đất rung động, mặt trời mờ ám.” Lúc đó người Bà
La Môn cắt đầu nhà Vua, đem về nước láng giềng.
Bấy giờ năm trăm Thái tử và
các quần thần, tẩm liệm thân tàn của Vua Đại Quang Minh, xây tháp cúng
dàng.
Phật bảo Ngài A Nan rằng:
“Vị đệ nhất đại thần lúc bấy giờ, thấy Vua Đại Quang Minh đem
đầu bố thí, mắt chẳng nỡ nhìn, nên đành tự sát, nay chính là Xá
Lợi Phất, còn Vua Đại Quang Minh, nay chính là ta, Thích Ca Như Lai vậy. Bồ
Tát tu tập khổ hạnh như thế, thề vì chúng sinh, nhớ ơn chư
Phật, nên được siêu thoát, thành đạo Vô thượng Bồ Đề.
Xá Lợi Phất, được biết Như Lai, sắp
vào Niết Bàn, mắt chẳng nỡ thấy, bèn nhập diệt trước cũng
như xưa kia, chẳng nỡ thấy ta, xả thân bố thí, việc đó không
khác.
Trong khu vườn ấy, gốc cây kia, ta đã từng
bỏ đủ một ngàn cái đầu của ngôi Vua Chuyển Luân để bố thí, chớ đừng
nói các kiếp khác, khi không làm Vua, ta cũng đã từng hy sinh cả thân
thể, chân tay để bố thí nữa.”
Khi Phật nói đến nhân duyên tu
khổ hạnh đó, thì vô lượng trăm nghìn chúng sinh phát
tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác;
Hàng trăm nghìn người được quả Tu
Đà Hoàn cho đến quả A La Hán.
Và vô lượng trăm nghìn người phát
tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật.
Hết thảy đại chúng: Chư thiên,
Long, Quỷ thần, Nhân và Phi nhân, nghe Phật thuyết pháp vô
cùng sung sướng, liền cúi đầu đỉnh lễ mà lui ra.
Bấy giờ ở nước Ma Già Đà có
năm trăm tên giặc, thường đón đường cướp phá, hà hiếp kẻ vô cớ, làm cản
trở sự đi lại. Vua Ma Già Đà sai quân đi bắt. Họ lùa
chúng vào rừng, đến một nơi hiểm trở và bắt trọn ổ cướp, rồi móc mắt,
xẻo mũi, cắt tai chúng.
Lúc đó, năm trăm tên giặc, thân thể đau
đớn, sắp chết đến nơi. Trong số năm trăm người ấy, có một người là đệ
tử Phật. Người này bảo đồng bọn rằng: “Chúng ta chẳng sống được bao
lâu nữa, tại sao không chí thành xưng niệm danh hiệu của Phật?”
Bấy giờ năm trăm người, đồng thanh hô
to lên rằng: “Kính lạy đức Phật Thích Ca Mâu Ni!”
Trong khi ấy, thì Phật từ núi Kỳ Xà
Quật, dùng sức thần thông đến núi Càn Đà.
Gió lớn nổi lên, rung chuyển cây cối, bụi chiên
đàn cuốn lên, mờ mịt hư không. Gió liền thổi đến khu rừng,
nơi bọn giặc ngộ nạn, thu nhặt những mắt, mũi, tai v.v…của bọn
giặc và làm cho bình phục như cũ.
Khi bọn giặc được hoàn đôi mắt, hết các
thương tích, máu biến thành sữa, thì bảo nhau rằng: “Chúng ta nhờ ơn
Đức Phật mà thân thể được yên vui.
Nếu muốn báo đền ơn Phật, chúng
ta phải mau mau phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác”.
Nói xong, tất cả đều đồng thanh hô
to lên rằng:
“Những người chưa được yên vui, ta sẽ
làm cho được yên vui, những người chưa được giải thoát, ta sẽ khiến
cho được giải thoát; những chưa được độ, ta sẽ độ cho; những người
chưa đắc đạo, ta sẽ khiến cho được vào Niết Bàn.”
Lại nữa, những phương tiện từ
bi và sức uy thần của Đức Như Lai thật khó nghĩ
bàn. Hồi Đức Phật ở nước Xá Vệ, lúc ấy trong núi
Quật Sơn có năm trăm người, thường đón đường cướp phá, làm mọi điều phi
pháp.
Bấy giờ Đức Như Lai dùng sức phuơng
tiện, hóa làm một người, cưỡi con voi lớn, mình mặc áo giáp, lưng đeo cung tên,
tay cầm giáo nhọn. Con voi trang sức bằng các thứ bảy báu; đồ trang sức
của người ấy cũng toàn bằng thất bảo, lộng lẫy, sáng chói; một mình đi
vào con đường hiểm trở, đến núi Quật Sơn.
Lúc đó, từ trên núi, năm trăm tên cướp
trông thấy người ấy từ đằng xa, liền bảo nhau rằng: “Chúng ta làm giặc đã
lâu, chưa từng thấy người nào như thế.”
Tên đầu đảng mới hỏi đồng bọn rằng: -Các
anh thấy gì?
-Chúng tôi thấy một người cưỡi con voi lớn,
y phực lộng lẫy, yên cương của voi toàn bằng thất bảo, tỏa ra ánh
sáng, chiếu rực trời đất mà lại chỉ có một mình, đang từ đằng xa đi đến. Nếu
ta bắt được, thì y phục và đồ tư trang của người ấy dùng đến
bảy đời cũng không hết.
Tên đầu đảng nghe xong, lòng sinh vui
mừng và khẽ bảo đồng bọn rằng: “Cẩn thận, chớ bắn vội! Chúng ta hãy
từ từ bao vây cả phía trước, phía sau, rồi cùng xông ra một lượt mà bắt.”
Lúc bấy giờ năm trăm người đồng
thanh hô to, bảo người kia hãy đứng lại.
Người kia dùng sức từ bi, rủ
lòng thương xót, liền giương cung bắn.
Năm trăm tên cướp lần lượt bị
tên, thương tích đau nhức, không thể chịu nổi, đều cùng té nhào, lăn lộn kêu
khóc, ngồi dậy nhổ tên ra, nhưng tên cứ dính chặt, không sức nào nhổ nổi.
Bọn cướp sợ hãi và nói với
nhau rằng: “Hôm nay chúng ta tất phải chết. Từ xưa đến
nay chưa gặp người nào mà khó chống cự như người này. Rồi cùng đọc bài
kệ hỏi rằng:
“Ông là người thế nào
Có sức chú thuật này,
Hiện phép Long, Thần, Quỷ,
Một tên bắn năm trăm
Đau khổ không thể tả.
Chúng tôi đều quy y,
Xin vì nhổ tên độc,
Thuận theo không dám trái.”
Bấy giờ người kia liền nói bài kệ đáp
rằng:
“Vết thương không đau mấy,
Tên bắn chẳng quá mạnh,
Người khỏe không thể nhổ.
Chỉ nghe nhiều là khỏi.”
Nói kệ xong, người kia liền hiện
thân Phật, phóng hào quang lớn, chiếu khắp mười phương. Hết
thảy chúng sinh được tấy ánh sáng đó, thì người mù trở lại sáng,
người gù đứng thẳng được, người què được tay chân, kẻ mê lầm được thấy chính
đạo. Nói tóm lại mọi sự không vừa ý, đều được toại
nguyện.
Khi ấy Đức Như lai thuyết pháp cho
năm trăm người nghe, chỉ dạy những điều lợi lạc. Năm trăm người nghe
pháp vui mừng, thương tích bình phục, máu trở thành sữa, liền mở
lòng Vô thượng Bồ Đề, đồng thanh đọc bài kệ rằng:
“Chúng ta phát tâm rồi.
Làm lợi ích chúng sinh.
Phải nên thường cung kính,
Thuận theo học chư Phật,
Nhờ Phật sức từ bi,
Cứu khổ, lòng yên vui.
Nên phải nhớ ơn Phật,
Bồ Tát và Thiện Hữu
Sư trưởng và cha mẹ,
Cùng mọi loài chúng sinh.
Oán, thân lòng bình đẳng,
Ấn đức không có hai.”
Bấy giờ trên không trung, các trời ở cõi
dục và trời Kiều Thi Ca, mưa hoa, tấu nhạc cúng dàng Như Lai đồng
thanh đọc kệ rằng:
Con nhờ phúc đời trước,
Được sáng sủa nghiêm sức
Cúng dàng các thứ quí
Lợi ích cho hết thẩy
Thế Tôn rất khó gặp
Diệu pháp khó được nghe.
Nhờ vun trồng cõi phúc
Nay được gặp Như Lai
Chúng con nhớ ơn Phật,
Đều cùng phát đạo tâm.
Con nay được thấy Phật
Nếu có nghiệp thiện gì
Xin vì mọi chúng sinh
Hồi hướng đạo Vô thượng.
Nói kệ xong, các vị trời đi nhiễu
quanh Phật trăm nghìn vòng, cúi đầu lễ Phật rồi bay lên hư
không, biến đi.
Lại nữa, sức từ bi, phương tiện của Đức
Như Lai thật khó nghĩ bàn.
Một lần, tại nước Tỳ Giá Ly, có người Bà
La Môn, chấp theo tà kiến tham đắm kiêu căng.
Ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục
Kiền Liên đến nhà nói pháp khuyên nhủ, nhưng người ấy không chịu tin
theo, cứ cố chấp tà thuyết.
Người này giàu có, của báu vô
số, nhưng lại không con. Người ấy tự nghĩ, một mai chết đi, của cải mất
hết. Nghĩ như thế rồi, liền đến thần miếu, và các thần cây, lễ bái cầu
tự.
Sau chín mươi ngày, người vợ mang
thai. Chín tháng mười ngày, sinh được con trai, tân hình đẹp đẽ, tướng
mạo khôi ngô, cha mẹ yêu mến, mọi người tôn trọng. khi
mười hai tuổi, một hôm cùng các bè bạn đi chơi, giữa đường bị một con voi say đạp
chết.
Cha mẹ hay tin, vật vã than
khóc, lòng phát điên cuồng, mình mẩy lấm láp, bứt tóc, rức tai, cất
tiếng than rằng: “Sao mình bạc phúc thế này, có sống cũng như chết
vậy!” Sau tìm đến nơi con chết, ôm lấy xác con, kêu gào thảm thiết tỉnh
rồi lại mê, tâm trí cuồng loạn, khỏa thân mà đi.
Lúc đó may sao, được thấy Đức
Như Lai. Phật dùng sức từ bi, hóa làm người con. Cha mẹ thấy
vậy, vội đến ôm lấy, vui mừng không xiết, tâm hết cuồng loạn, tỉnh
táo như trước.
Bấy giờ Phật mới nói pháp cho nghe, nghe
xong đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Lại nữa, sức từ bi, thiện căn của Như
Lai không thể nghĩ bàn.
Một lần, có ông Vua tên là Lưu Ly,
xuất quân chinh phạt nước Xá Duy, bắt những người họ Thích, đem đi rồi đào
hố chôn vừa tới nách, không cho cử động.
Hơn bảy ngày sau, Đức Như Lai dùng
sức từ bi biến chỗ đất đó thành một cái ao. Nước ao trong mát, đủ tám
công đức. Trong ao có các thứ hoa thơm ngát, như hoa Ba đầu
ma, hoa Phân đà lợi, to bằng bánh xe, xanh, vàng, đỏ, trắng. Lại có các
loài chim, cùng hòa tiếng hót.
Những người họ Thích thấy thế,
sinh lòng vui mừng, liền phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính
giác.
Sau khi phát tâm Bồ Đề thì
Vua Lưu Ly lấy rượu cho năm trăm voi đen uống thật say, đóng móng sắt
vào chân, buộc kiếm nhọn vào ngà, rồi đóng một hồi trống, thả đàn voi ra, dày đạp
những người họ Thích. Thân thể tan nát, xương da rã rời, ngổn
ngang trên mặt đất.
Nhưng nhờ sức từ bi của Phật,
nên thân tâm được yên vui nên mới mở lòng Bồ Đề, nên đối với chúng
sinh, sinh tâm bình đẳng; vì sinh tâm bình đẳng nên không
mang lòng sầu hận; vì không sầu hận nên sinh lên cõi trời.
Khi sinh lên cõi trời rồi, nhờ
có thiên nhãn, thấy đủ căn duyên, liền nói với nhau rằng:
“Nhờ từ ân của Phật, chúng ta mới được sinh thiên. Cung
điện toàn bằng thất bảo, y phục lộng lẫy, thân tướng rực
rỡ, ca nhạc tuyệt vời, hết thảy đều nhờ thần lực của Đức
Như Lai mà có. Vậy nên chúng ta phải phát tâm đại
bi làm lợi ích chúng sinh. Bất cứ nơi nào có Phật Pháp, hoặc
ở thành, ấp, làng mạc, hoặc trong rừng núi, hay cung điện, nhà cửa, hễ có người đọc
tụng, biên chép, giải bày nghĩa lý, thì người ấy được mọi sự cung cấp,
đầy đủ như ý, không bao giờ thiếu thốn. Nếu có xảy ra chiến
tranh, bệnh tật, đói khát, thì chúng ta phải ngày đêm ủng hộ, tâm
không xa lìa.”
Lúc mọi người phát nguyện như
thế rồi, thân tướng trở nên sáng sủa, chói lọi, rực rỡ hơn
trước bội phần, họ vui mừng nhảy múa, bay trên hư không mà
đi.
Lại nữa, sức từ bi phương tiện của Đức
Như Lai không thể nghĩ bàn.
Sau khi đánh phá nước Xá Duy và hãm hại
những người họ Thích rồi, Vua Lưu Ly bắt những người con
gái dòng họ Thích, chọn những người có nhan sắc, và tài
năng, gồm năm trăm người, bắt họ xếp hàng, gảy đàn, thổi sáo, múa hát, mà trở
về nước mình.
Khi về tới nhà, các bà phu nhân và cung
nữ lên ngồi trên chính điện mà nói với mọi người rằng: “Hôn nay
ta sung sướng vô cùng”.
Lúc đó, những người con gái họ
Thích hỏi Lưu Ly rằng: -Tại sao hôm nay các bà ấy sung sướng?
Vua đáp: -Vì ta đã thắng kẻ thù.
Những người con gái họ Thích nói:
-Nhà Vua không thắng đâu. Thật ra
thì cả bốn bộ binh của nhà Vua cũng không thể địch lại được một người họ
Thích chúng tôi. Nhưng vì chúng tôi là đệ tử của
Phật, không tranh giành với ai, nên để nhà Vua thắng đó thôi. Nếu chúng
tôi mà chống cự, thì chắc chắn nhà Vua phải kéo quân sang nước
Xá Duy ba bốn lần.
Lần thứ nhứt, khi nhà Vua mang quân đến,
những người trong dòng họ Thích chúng tôi đã bảo nhau rằng: “Ông
Vua Lưu Ly này không biết đến ân nghĩa, sinh lòng tàn ác. Nếu chúng
ta cùng ông ta giao chiến, thì không phân biệt được người hiền,
kẻ ngu, đen trắng không rõ. Vậy chúng ta chỉ nên làm cho ông
ta sợ hãi mà rút lui thôi.
Nói xong liền phát thệ rằng: “Mọi người chúng
ta đều phải bắn, nhưng không được để mũi tên gây nên thương tích.” Rồi xuất
bốn bộ binh ra chống cự Vua Lưu Ly. Cách bốn mươi dặm, giương cung
mà bắn. Những mũi tên theo nhau bay đi vun vút và đều trúng đích. Thấy
thế, Vua Lưu Ly mang lòng hoảng sợ, liền mở đường chạy lui.
Hơn chín mươi ngày sau, Vua Lưu Ly lại
cử binh đi đánh dòng họ Thích.
Lúc đó những người họ Thích họp
lại bàn rằng: “Lưu Ly là con người tàn ác, không biết hổ thẹn, lại
kéo quân đến, muốn rước lấy họa hoạn hay sao?”
Nói xong cũng tuyên thệ rằng:
“Hôm nay chúng ta cùng nhắm áo giáp mà bắn, đừng để cho người bị
thương.” Thế rồi mọi người đều giương cung bắn, khiến cho áo
giáp và những đồ binh khí của địch tan tành, gẫy nát, chỉ còn người
không.
Khi ấy, Vua Lưu Ly trong
lòng sợ hãi, liền triệu tập các quần thần để thương nghị.
Vua nói: “Hôm nay, chúng ta sợ
khó toàn tính mệnh”
Trong số có một vị đệ nhất đại thần
tâu rằng: “Những người họ Thíchđều là đệ tử của Phật, giữ
giới bất sát, tu hạnh từ bi, nếu không, thì thân mệnh chúng
ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị tiêu diệt.”
Vua nói: “Nếu thật như thế, thì ta hãy
tiến lên”.
Lúc đó, những người họ Thích khoang
tay đứng nhìn. Quân mã của Vua Lưu Ly đến gần bức hiếp. Trong
số dòng họ Thích, có một người Bà La Môn bảo những người họ
Thích rằng: “Tai họa đã đến nơi, sao lại thản nhiên mà đứng nhìn
như vậy?”
Họ đáp: “Chúng tôi không tranh
giành với ai cả, nếu đánh nhau với kẻ kia thì không phải
là đệ tử của Phật.” Bất mãn với những lời nói đó,
người Bà La Môn xông ra vòng chiến, đánh Vua Lưu Ly; bắn một
phát, giết bảy người và chỉ trong khoảng thời gian ngắn, số tử
thương đã tăng lên rất nhiều, và bốn bộ binh của Vua Lưu Ly phải tìm
đường rút lui.
Lúc bấy giờ, những người họ Thích lại
nghĩ rằng: “Chúng ta không làm bạn với kẻ ác nhân này.” Nghĩ xong, liền
họp nhau đuổi người Bà La Môn ấy đi. Sau khi đuổi người Bà
La Môn đi, thì Vua Lưu Ly lại xuất quân đánh nước Xá Duy và vì
thế nên nhà Vua mới thắng.
Nghe xong, Vua Lưu Ly sinh
lòng hổ thẹn, liền sai bọn Chiên đà la xẻo tai, mũi, cắt chân
tay của những người con gái họ Thích, rồi mang xe chở đến cái mả thật cao
mà vứt.
Sau khi bị cắt chân tay; những người con
gái họ Thích lăn lóc kêu gào, khóc than thảm thiết, đau
đớn khổ cực biết rằng cái thân tàn chẳng còn sống được bao lâu.
Họ bắt đầu gọi đến cha mẹ, anh em
và chị em, hoặc kêu trời, la đất, đau đớn không cùng.
Trong số những người con gái đó, có một
người đứng hạng nhất bảo những người kia rằng: “Này các chị em, tôi
đã từng theo Phật, được biết trong lúc tai nạn nguy cấp, nếu người
nào phát được một niệm niệm Phật, dốc lòng quy mệnh, thì được an
ổn và đúng như ý nguyện.”
Lúc đó năm trăm người con gái họ
Thích đồng thanh, chí thành niệm rằng: “Kính lạy Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, bậc Vô thượng Chính đẳng Chính giác!” Rồi lại cùng
xướng to lên rằng: “Đau đớn thay! Than ôi, đấng Bạc Già Phạm!”
Khi nghe xướng như thế, thì ở giữa không
trung, nhờ sức uy thần và thiện căn của Đức Như Lai, một áng
mây đại bi nổi lên, rồi tiếp theo là những giọt nước đại
từ tuôn xuống thân thể của những người con gái họ Thích. Nhờ
những giọt mưa ấy, mà tai mũi, chân tay lại hoàn như cũ.
Cảm thấy vô cùng sung sướng,
những người con gái họ Thích đồng thanh hô to lên rằng: “Lạy Đức Từ
Phụ Như Lai, Đức Thế Tôn không gì hơn. Ngài là phương diệu
dược của thế gian. Đối với những chúng sinh trong ba
cõi, Ngài thường cứu khổ, ban vui, bởi thế nên ngày nay chúng con mới được
thoát nạn”.
Rồi bảo nhau rằng: “Chúng ta phải nghĩ đến
ơn của Phật và phải nhớ báo ơn Phật.”
Nhưng họ lại nghĩ: Nên lấy gì để báo
ân Đức Phật? Thân của Như Lai là thân kim cương, thường còn
không mất, không đói khát, sắc tướng mầu nhiệm, hết thảy đều đầy
đủ; trăm nghìn phép định, năm căn, năm lực và bảy món trợ đạo không
thể nghĩ bàn; ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, phúc tuệ trang
nghiêm, thường ở cảnh đại Niết Bàn, coi chúng sinh như
con, oán thân bình đẳng, không mong báo đáp.
Ngày nay chúng muốn báo ân Phật
thì chỉ nên xuất gia, giữ gìn giới cấm và hộ trì chính
pháp.
Suy nghĩ thế rồi, liền cầu áo
bát, trở về bản quốc đến nơi tinh xá của Tỷ Khưu Ni xin được xuất
gia.
Lúc ấy, bọn lục quần Tỷ Khưu Ni, thấy những
người con gái họ Thích, tuổi hãy còn trẻ, nhan sắc lộng lẫy thì
tự nghĩ rằng: “Tại sao họ lại có thể bỏ những cái khó bỏ để đi xuất gia? Ta hãy
đem những sự khoái lạc ở đời nói cho họ nghe, và bảo họ đợi khi nào luống
tuổi hãy xuất gia, như thế chẳng khoái lắm sao? Nếu họ hoàn tục,
tất sẽ đem áo bát dâng cho ta.” Suy nghĩ thế rồi, bọn lục quần Tỷ
Khưu Ni đến trước những người con gái và đem những việc trên nói cho họ
nghe.
Những người con gái nghe xong, lòng thấy khổ
não. Và tự nghĩ rằng: “Đây là nơi yên ổn, sao lại có sự đáng sợ như
vậy, chẳng khác nào trong thức ăn, ngon ngọt mà pha lẫn thuốc độc. Những
điều mà bọ Tỷ Khưu Ni kia vừa nói cũng lại như thế. Trong những món dục
lạc ở đời, có nhiều nguy hại, ta đã biết rồi, tại sao lại còn tán dương những
thứ đó và khuyên ta trở về để đắm theo ngũ dục?” Nghĩ xong liền oà
lên khóc và ra khỏi phòng Tăng.
Bấy giờ có một vị Tỷ Khưu Ni tên là Hoa
Sắc hỏi những người con gái rằng:
-Tại sao các người lại khóc?
-Vì không được như ý nguyện.
-Các ngươi nguyện điều gì?
-Chúng tôi muốn xuất gia mà
không được chấp thuận.
-Các ngươi muốn xuất gia thì
ta sẽ độ cho.
Những người con gái nghe rồi, lòng
sinh vui mừng nói với bà Hoa Sắc rằng: “Bạch Hòa Thượng, chúng
con khi còn tại gia, gặp nhiều thống khổ, họ hàng ly tán, lại
bị xẻo mũi, cắt tay, chặt hết tay chân, đau đớn khôn cùng”.
Lúc ấy bà Hoa Sắc bảo các đệ tử rằng:
“Những nỗi tân khổ của các ngươi đâu đáng kể. Khi ta còn tại gia đã
phải gánh chịu không biết bao nhiêu khổ cực.”
Những người con gái họ Thích liền
quỳ xuống, chắp tay, xin Thầy nói lại căn nguyên của các nỗi khổ còn tại
gia cho nghe.
Bấy giờ bà Hoa Sắc Tỷ Khưu Ni mới
vào đại định, dùng sức thần thông, phóng hào quang lớn
chiếu khắp cõi Diêm Phù Đề, chiêu tập những người có duyên với Phật
pháp, Thiên, Long, Quỷ thần, Nhân và Phi nhân.
Rồi giữa đại chúng, bà tự nói rằng:
“Khi ở tại gia, ta là người nước Xá Vệ, cha mẹ gả ta cho
người phương Bắc. Theo phong tục nước ấy, người đàn bà khi mang thai, gần
ngày sinh nở phải về nhà cha mẹ mình. Cứ như thế, vài năm một
lần, sau lại mang thai. Có một kỳ gần đến ngày sinh, hai vợ chồng ta, về
nhà cha mẹ đi được nửa đường thì gặp một con sông, nước
sông tràn đầy, chảy xiết, đường xá vắng tanh, lại nhiều giặc cướp.
Khi tới sông, thì trời vừa sẩm tối,
không thể qua được, đành phải ngủ lại trên bờ sông. Lúc canh một thì bụng
chuyển đau, ta liền ngồi dậy và không bao lâu sinh được một trai.
Trong đám cỏ trên bờ sông, có một
con rắn độc, thấy mùi máu tươi, nó mới tìm đến, nhưng chưa đến chỗ ta nằm. Trong
khi đó thì chồng ta và người đầy tớ đang ngủ ở giữa đường. Rắn đến chỗ người
đầy tớ và cắn chết ngay, rồi lại nơi chồng ta, vì ngủ không biết, nên cũng bị
nó cắn chết.
Lúc ta hô: “Rắn! Rắn!” Không thấy chồng
ta trả lời. Sau khi cắn chết chồng ta và người đầy tớ rồi, nó lại cắn
luôn cả trâu, ngựa.
Sáng hôm sau, thấy thân thể của
chồng sưng phồng, thối nát, xương thịt tan rã, ngổn ngang trên đất. Ta
đau buồn sợ hãi quá đến nỗi ngất đi rồi vật vã than
khóc, đập đầu, rứt tóc, thân hình lấm láp, tỉnh rồi lại mê, qua mấy
ngày liền, đau khổ buồn thương như vậy.
Một mình ở lại bờ sông cho đến khi
nước sông rút bớt, ta mới cõng đứa con nhỏ sau lưng, còn đứa hài nhi mới
sinh thì bọc vào trong áo, lấy thắt lưng buộc chặt rồi ngậm ở nơi miệng
mà lội qua sông.
Khi đến giữa dòng, ta quay lại nhìn đứa
con lớn còn ngồi trên bờ, thì thấy một con mãnh hổ đang hồng hộc chạy tới: Ta vừa cất
tiếng tri hô, bỗng đứa hài nhi rơi theo dòng nước. Ta vội cúi xuống
mò tìm, đứa hài nhi đã chẳng thấy, thì đứa con nhỏ trên lưng, vì không tay giữ,
cũng lại té xuống sông và bị dòng nước cuốn đi. Trong khi đó, thì đứa con
lớn trên bờ kia bị hổ ăn thịt.
Nhìn cảnh ấy, lòng ta tan nát, đứt, từng
khúc ruột, máu trào ra miệng, kêu gào khóc than; chỉ trong một buổi sớm ta đã
phải chứng kiến bao cảnh tang tóc như vậy? Khi lên đến bờ sông, ta liền
ngã lăn ra bất tỉnh.
Một lúc sau, ta thấy một bọn người đi đến. Trong
đám người đó, có một ông Trưởng giả là bạn của cha mẹ ta.
Ta vội hỏi thăm tin tức cha
mẹ, thì được người Trưởng giả cho biết rằng, nhà cha mẹ ta
vừa cháy đêm trước và cha mẹ đều bị chết thiêu. Được biết tin ấy,
ta lại chết ngất, hồi lâu mới tỉnh.
Vừa đúng lúc đó, có năm trăm
tên cướp phá bọn ông Trưởng giả kia.
Bấy giờ tên cướp bắt ta dẫn đi, rồi ép
ta làm vợ, giao cho ta giữ cửa, khi bị người đuổi, gặp lúc nguy cấp, phải mở
cho mau.
Ít lâu sau, một hôm chồng ta cùng bọn giặc
đi cướp giật, bị các tài chủ trong làng, hợp lực đuổi bắt,
phải bỏ chạy về.
Lúc đó, trong nhà ta vừa sanh con, chồng
ta đứng ngoài, gọi hai ba lần, nhưng không ai mở cửa.
Bấy giờ, y tự cho rằng ta muốn
hại y. Nghĩ rồi, y liền trèo tường mà vào và hỏi tại sao ta không mở cửa?
Ta nói là vì vừa mới sinh nở nên không kịp ra mở cửa. Thấy thế, tên tướng
cướp mới nguôi giận và bảo ta rằng: “Người ta hễ có thân, thì tất có
con. Vì ngươi sinh đẻ mà suýt nữa nguy hại cho ta, đứa con này có ích gì,
đem giết cho mau!”. Nhưng lòng ta thương xót, không nỡ đem giết. Bấy
giờ tên cướp rút dao chặt hết tay chân đứa trẻ rồi bảo ta phải ăn cho hết, nếu
không chịu ăn, y sẽ chém đầu.
Vì quá sợ hãi nên ta phải ăn,
sau khi ăn xong, y hết tức giận.
Sau đó chồng ta tiếp tục đi cướp
phá. Một hôm bị nhà Vua bắt được, đem ra trị tội. Cái phép trị giặc
là phải xử tử và người vợ của tội nhân cũng bị chôn theo chồng. Lúc
ấy, ta mặc toàn đồ anh lạc. Có kẻ tham lợi, ban đêm đến đào mả để
lấy của báu và bắt ta đem đi. Nhưng ít lâu sau, nhà Vua cho người
đi dò xét và ta lại bị bắt.
Sau khi bắt được ta, nhà Vua theo luật
mà xử như trị tội giặc. Phép trị tội giặc là xử tử và người vợ của tội
nhân cũng chôn theo. Nhưng chôn không được kỹ, nên đêm đến các loài hổ
lang ra bới lên để ăn tử thi, nhờ thế mà ta thoát chết.
Khi ra khỏi mả, hồn ta mê man, mặc
dầu cứ đi mà không biết đi đâu.
Dọc đường ta gặp nhiều người, ta liền
nhờ họ chỉ cho một nơi yên ổn, để diệt trừ mọi nỗi lo âu sầu
muộn.
Bấy giờ có một vị Trưởng lão thuộc
dòng Bà La Môn, rủ lòng thương xót, nói với ta rằng: “Lão từng nghe
nói, trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có nhiều yên
vui, không còn khổ não.”
Được nghe xong, ta thấy vui mừng vô
hạn. Ta liền đến chỗ Ngài Đại Ái Đạo, Kiều Đàm Di Tỷ Khưu
Ni cầu xin xuất gia.
Sau khi xuất gia, ta cứ lần lượt y
theo giáo pháp mà tu tập, cho đến khi chứng được đạo
quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và tám món giải
thoát.
Các ngươi thấy chưa? Khi còn ở tại
gia, ta đã phải trải qua những nỗi khổ đau như vậy. Nhưng cũng
nhờ thế mà ngày nay ta mới chứng được đạo quả.
Những người con gái họ Thích nghe
xong, lòng rất vui mừng, chứng được pháp nhãn. Đại chúng nghe
rồi, đều cùng phát tâm, cầu đạo Vô thượng.
Khi bấy giờ bà dì Phật là Ngài Kiều
Đàm Di Tỷ Khưu Ni bảo các vị Tỷ Khưu Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di
Ni, Ưu Bà Di và hết thảy phụ nữ rằng: Phật pháp là lợi
ích lớn. Chỉ trong giáo pháp của Đức Như Lai mới
có đầu đủ các công đức và ba thứ quả báo. Hết thảy chúng
sinh đều có phần trong đó.
Thế mà Đức Như Lai lại không
cho phụ nữ chúng ta được dự vào Phật pháp là vì lẽ
gì? Là vì phụ nữ chúng ta phần nhiều hay ngờ vực, chấp
trước, không có lòng hỷ xả. Cũng vì chấp trước nên mới tạo
không biết bao nhiêu nghiệp trói buộc, đến nỗi bị ngu si và ái
dục che lấp mất chân tâm, do đó mà phải chìm đắm mãi
trong bể khổ sinh tử, mặc cho lớp sóng ái dục dập vùi.
Vì tà kiến và tham ái làm chướng
ngại, nên mới sinh ra kiêu ngạo, lười biến, bởi thế thân này,
không thể đạt đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, không thể có được ba
mươi hai tướng tốt.
Trong đường sinh tử, không được
làm Chuyển Luân Thánh Vương, dùng phép Thập thiện, giáo hóa chúng
sinh; cũng không thể đạt đến ngôi Phạm Vương cùng tột,
không thể kiến lập Chính Pháp, và khuyến thỉnh chư Phật chuyển
bánh xe pháp để cho hết thẩy chúng sinh đều được lợi lạc. Bởi
thế nên Đức Như Lai không cho nữ nhân được làm đệ tử.
Thiên Ma Ba Tuần, các loại tà
kiến và hết thảy ngoại đạo chuyên làm điều ác, chấp theo tà
thuyết, phá hoại chính pháp, diệt Phật Pháp Tăng. Vì vậy Đức
Như Lai không cho nữ nhân dự vào Phật Pháp.
“Ta vì hết thảy phụ nữ, ba lần thỉnh
cầu Đức Như Lai cho được xuất gia, tu học Phật pháp,
mà Phật không thuận.
Vì không được như nguyện, lòng ta buồn tủi,
giận cho thân phận nữ nhân, bất giác, lệ tràn mí mắt, ta mới thất
thểu bước ra khỏi Kỳ Hoàn Tinh Xá.
Lúc đó ta gặp Ngài A Nan. Ngài A
Nan hỏi tại sao mà trông ta buồn khổ như vậy. Ta liền thuật lại cho
Ngài A Nan nghe là ta muốn xuất gia, tu theo Phật pháp,
mà cầu xin đến ba lần Đức Như Lai cũng không chấp thuận,
bởi thế nên ta buồn khổ.
Bấy giờ Ngài A Nan bảo ta đừng
lo, Ngài hứa sẽ xin Đức Như lai chấp thuận cho ta vào Phật
Pháp. Nghe lời Ngài A Nan nói vậy lòng ta sung sướng vô
cùng.”
Khi ấy Ngài A Nan vào bạch
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, con muốn cầu xin Thế Tôn hứa
khả cho một việc.”
Phật bảo A Nan: -Ông muốn xin điều
gì, cứ nói.
A Nan thưa: -Bạch Đức Thế Tôn, Di
Mẫu Ba Xà Ba Đề đã chăm nom nuôi nấng sắc thân của Thế
Tôn, đến ngày nay, Thế Tôn đã thành Phật. Nếu kể đến công
lao của Di Mẫu đối với Như Lai, thì Như Lai phải mang
ơn Di Mẫu rất nhiều. Thế mà, hết thảy chúng sinh, Như
Lai còn cho dự vào Phật Pháp huống chi Di Mẫu, nỡ
nào Như Lai không thuận?
Phật bảo Ngài A Nan:
-Đúng như lời ông nói. Không phải
ta không biết đến thâm ân của Di Mẫu đối với ta, nhưng ta không muốn
cho nữ nhân dự vào Phật pháp. Nếu ta cho nữ nhân ở
trong Phật pháp, thì sau năm trăm năm, chính pháp của ta sẽ suy
đồi. Bởi thế mà ta không muốn để cho nữ nhân dự vào Phật
pháp.
Bấy giờ Ngài A Nan cúi đầu lễ,
rồi quỳ gối, chấp tay lại bạch Phật rằng: -Bạch Thế
Tôn, con tự nghĩ chư Phật ở quá khứ đều có đủ bốn bộ chúng, mà
chỉ có một mình Đức Thích Ca Như Lai là không đủ.
Phật bảo Ngài A Nan:
-Nếu Di Mẫu quý chuộng Phật
pháp, phải hết sức tinh tiến, tu tập phép Bát Kính, ta sẽ ưng
thuận, cho được xuất gia sống trong Phật pháp.
Lúc đó Ngài A Nan lễ Phật, đi
nhiễu ba vòng, rồi lui trở ra. Ngài liền đến báo cho ta biết là Đức
Như Lai đã theo lời cầu xin của Ngài mà bằng lòng cho ta được xuất
gia, phụng trì Phật pháp.
Được biết tin ấy lòng ta vui mừng vô
hạn, và bạch Ngài A Nan rằng:
-Quí hóa thay, Ngài A Nan! Ngài đã hết
lòng thỉnh cầu Đức Như Lai, khiến cho tôi được toại nguyện.”
“Rồi Ngài nói lại cho ta nghe pháp Bát
Kính mà Đức Như Lai đã ân cần dạy bảo. Nghe xong, nửa
mừng nửa tủi, ta tự nghĩ rằng: Thân ta đây là cái thân vô thường, nay được
đem đổi lấy cái thân quý báu; mệnh sống ta đây, niệm niệm hằng
biến diệt, không nhất định, nay được đem đổi lấy mệnh quý báu; thân
mệnh, của cải của ta đây đều do nhân duyên giả dối mà
có, không phải chân thật, nay được đem đổi lấy của báu vĩnh viễn bất
diệt.
Khi nghĩ đến những công đức và lợi
ích như thế, ta liền sinh lòng chí thành cung kính cúng
dàng Ngài A Nan và bạch rằng: “Đại Đức A Nan, xin Ngài đừng
lo. Tôi sẽ trọn đời tuân theo giáo pháp mà Đức
Như Lai chỉ dạy. Dù có phải bỏ cả thân mệnh chăng nữa, tôi
cũng không dám vi phạm.”
“Bấy giờ Đức Như Lai mới nói
pháp Bát Kính nhiệm mầu cho ta nghe.
Lúc đó, ta vận dụng lòng đại bi, vì
hết thảy nữ nhân đời vị lai mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế
Tôn, nếu sau này, trong đời ác trược, có người Thiện nữ nào,
đối với Phật pháp, sinh lòng kính mến, thì xin Thế Tôn cũng nhận
cho được vào Phật pháp.”
Khi ấy Phật bảo ta rằng: -Quí
hóa thay! Nếu sau này có những người Thiện nữ, biết hộ trì Phật pháp,
theo thứ lớp mà tu tập, giữ giới, bố thí, học rộng, tu
các thiện pháp, tại gia hay xuất gia, thụ tam quy hoặc
trì ngũ giới, hay giữ đủ các giới, tu các pháp lục độ và các
pháp trợ đạo, ta sẽ cho được tùy ý mà tu tập, và cũng được
ba thứ quả báo ở cõi người, cõi trời và đạo quả Vô
Thượng.
Nghe Phật nói thế, lòng ta vui sướng vô
cùng, ta liền bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân chúng
tôi mà được ba thứ quả báo ấy, thì chính là nhờ ơn Phật vậy.
Phật nói: -Đừng nghĩ như thế, Như
Lai không hề có ơn, đối với chúng sinh, Như Lai không bao
giờ kể có ơn. Nếu kể ơn tức là phá hoại cái tâm bình đẳng
của Như Lai. Nên biết rằng, đối với chúng sinh nếu Như
Lai còn kể có ơn hay không ơn, thì Như Lai không có tâm
bình đẳng.
Nếu chúng sinh nào đem lòng hủy
hoại Phật, Như Lai không giận, hoặc có chúng sinh lấy
hương chiên đàn mà ướp vào thân Như Lai, Như Lai cũng
không mừng.
Như Lai đối với hết thảy chúng
sinh đều bình đẳng, không còn oán, thân phân biệt. Ơn là ơn
của A Nan, chớ không phải của Như Lai. Là vì nhờ có A Nan mà nữ
nhân mới được vào Phật pháp.
Vậy nên đời sau, các Tỷ Khưu Ni và
hết thảy những người Thiện nữ, thường phải nên hết lòng ghi nhớ
ơn của A Nan, nhắc nhở danh hiệu, cung kính, cúng dàng, tôn
trọng tán thán, đừng để dứt mất. Nếu không thể làm được như thế
luôn luôn, thì đêm ngày sáu thời, cũng phải để tâm ghi nhớ.
Bấy giờ, Ngài Kiều Đàn Di bảo các vị Tỷ
Khưu Ni và tất cả mọi người Thiện nữ rằng: “Chúng ta phải nên dốc
lòng quy mệnh A Nan Đại Sư. Nếu người Thiện nữ nào, muốn
cầu sự yên ổn và quả báo tốt lành, cứ đến ngày mùng Tám
tháng Hai, hoặc mùng Tám tháng Tám, mặc áo sạch sẽ, dốc lòng thụ trì phép Bát
Trai Giới, ngày đêm sáu thời, siêng tu tinh tiến, thì Ngài A Nan sẽ dùng
sức uy thần, tùy nguyện giúp đỡ, khiến được như ý.”
Nghe pháp xong, đại chúng vui
mừng, rồi đi vòng bên phải mà lui ra.
Comments
Post a Comment