KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN
Dịch giả:
Thích Chính Tiến - Thích Quảng Độ
PL. 2506 - 1962
PHẨM HIẾU DƯỠNG THỨ HAI
Bấy giờ trong đại chúng, bỗng có một
đóa hoa sen bảy báu, từ nơi mặt đất hóa sinh, cọng bằng bạch
ngân, lá bằng hoàng kim, đài sen bằng ngọc phiêu thúc ca, riền
hoa bằng ngọc trân châu, thứ lớp trang nghiêm.
Bấy giờ Đức Thích Ca Như Lai liền
từ tòa ngồi đứng dậy, bước lên đài hoa sen báu
kia, ngồi kiết già phu, từ nơi thân thanh tịnh, Ngài hiện
ra thân của năm ngả, mỗi thân của năm ngả, có một vạn tám ngàn hình loại
khác nhau, mỗi mỗi hình loại, hiện ra trăm nghìn thứ thân, trong mỗi
mỗi thân, lại có vô lượng thân, nhiều như cát sông Hằng, cho
đến bằng cả số cát sông Hằng ở bốn phương v.v… trong mỗi mỗi
thân, lại hiện ra những thân nhiều như hạt bụi cả đại
địa khắp bốn châu thiên hạ, ở trong số mỗi mỗi thân nhiều như những hạt
bụi ấy, lại hiện ra những thân nhiều như những hạt bụi trong
ba ngàn đại thiên thế giới, ở trong mỗi mỗi thân nhiều như hạt bụi ấy,
lại hiện ra những số thân nhiều như những hạt bụi trăm
nghìn ức chư Phật thế giới ở khắp mười phương, cho đến hiện
ra những thân nhiều cùng tận cả cõi hư không pháp giới,
không thể lấy tâm nghĩ miệng bàn cho xiết được.
Bấy giờ Đức Như Lai, hiện ra những
thân như thế rồi, Ngài bảo Tôn giả A Nan, và các vị đại Bồ Tát ở
khắp mười phương và tất cả chúng sinh rằng:
-Các Thiện nam tử! Nay Như
Lai, khắp biết chân chính, tuyên nói lời chân thực rằng: Phật
pháp vốn không có ngôn thuyết, Như lai dùng phương tiện nhiệm
mầu hay dùng pháp không tướng ấy (tùy cơ phương tiện phân
biệt) mà nói danh tướng!
Như Lai khi còn phải ở trong đường
sinh tử, ở trong tất cả loài chúng sinh, cũng đã phải chịu đủ mọi thân
hình nhiều như những hạt bụi, không thể lấy lòng nghĩ, miệng
bàn cho xiết được.
Vì phải chịu thân như thế, cho nên tất cả chúng
sinh, cũng từng đã làm cha mẹ của Như Lai, Như Lai cũng
đã làm cha mẹ của tất cả chúng sinh, vì tất cả cha mẹ,
nên Như Lai thường làm khổ hạnh khó làm, bỏ cả những sự khó
bỏ như: Đầu, mắt, tủy, não, quốc thành, thê tử, voi, ngựa, bảy báu, kiệu
cáng, xe cộ, y phục, ẩm thực, đồ nằm ngồi, thuốc thang, cấp cho tất
cả, siêng tu tinh tiến, bố thí, trì giới, đa văn, thuyền định, trí
tuệ, cho đến đầy đủ tất cả vạn hạnh, thường không dừng nghỉ, tâm
không biết mỏi mệt hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn trả ơn,
nên mau chóng thành Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bởi thế, chính tất cả chúng sinh,
đã khiến cho Như Lai, đầu đủ bản nguyện, vì thế nên biết, tất cả chúng
sinh, là trọng ân đối với Phật, vì có trọng ân như vậy, cho nên Như Lai không
bỏ chúng sinh;
Như Lai đem tâm đại bi thường tu
tập phương tiện hữa vi để cứu độ chúng sinh.
Như Lai vì tất cả chúng sinh ở
trong ba cõi, hai mươi lăm cõi, mà không nghĩ đến công lao của
mình. Thường tu hành từ bi bình đẳng, xả hành phương
tiện, thấu suốt tất cả chúng sinh không, pháp không, năm ấm không,
cho nên không thoái chuyển tâm Đại thừa, để an vui lấy một
mình, không để mất Đại nguyện, bỏ chúng sinh chìm đắm trong
bể khổ sinh tử, chẳng trược Tiểu thừa chấp “không”, chẳng đọa phàm
phu chấp “có”, tu hành thực tướng phương tiện, chẳng bỏ lối
tu hành Nhị thừa, học tất cả phương tiện. Tu mọi hạnh như vậy,
là phương tiện nhiệm mầu sâu xa, cho nên thấu suốt được thực
tướng cả các Pháp, rồi tùy theo căn cơ của chúng sinh mà
phật nói pháp trước, sau có khác.
Nhưng, vì chúng sinh mê muội điên
đảo, lầm chấp thấy có ba Thừa, bị ái dục che đậy, chìm dắm trong
bể khổ, bị bốn đảo làm cho điên đảo: Đối với các pháp hữu lậu, vọng
tưởng phân biệt;
Đối với các pháp là vô ngã, vọng
tưởng thấy có ngã; đối với các pháp không phải là vui, vọng
tưởng chấp cho là vui; đối với các pháp là bất tịnh, vọng tưởng,
cho là tịnh, sinh, lão, bệnh, tử, biến đổi hoại diệt, niệm niệm
vô thường, năm cái, mười triền che đậy, luân hồi ba cõi, phải chịu sinh
tử không có trước sau, cũng như vòng bánh xe,
Bởi thế Như Lai, lập giáo cũng tùy
theo cơ nghi của chúng sinh, mà chia ra có ba tạng cho đến mười
hai bộ Kinh, đạo hóa chia giòng, tùy theo tín tâm nông
sâu, nói ra mọi kinh điển biện duyên, khiến cho chúng sinh có
thể liễu ngộ được thực tướng của các pháp mà chứng Niết
Bàn giải thoát.
Bởi thế Như Lai, từ bi bản
thệ, dùng mọi phương tiện, chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên ở mười
phương, đều tụ họp trong đại chúng đây, diễn nói chỉ
bày, kinh điển vi diệu này, là những lời dạy bảo ngàn
đời, lưu truyền mãi mãi về sau, khiến tất cả chúng sinh,
thường được đại an lạc;
Cho nên Như Lai thị hiện giáng
sinh, và nhập Niết Bàn; hoặc ở nơi cõi nước khác, xưng là Xá Na Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thượng Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên, Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn;
Hoặc lên ở cõi trời Đâu Suất Đà,
làm bậc đạo sư cho chư thiên; hoặc từ ở nơi cõi trời Đâu Suất, thị
hiện giáng sinhxuống cõi Diêm Phù Đề, hiện sống lâu tám mươi tuổi, rồi
vào Niết Bàn.
Nên biết đó đều là Như Lai không
thể nghĩ bàn; thế giới không thể nghĩ bàn; nghiệp báo thiện,
ác không thể nghĩ bàn; chúng sinh không thể nghĩ bàn; thuyền định
không thể nghĩ bàn, ấy là sức thần lực không thể nghĩ bàn của Phật. Phật
muốn khiến cho hết thẩy chúng sinh đều giác ngộ được Phật
tính của mình, cho đến hạ lưu độn căn chúng sinh cũng
đều khiến được biết.
Phật muốn khiến tất cả chúng sinh nếu
muốn được thấy Phật, liền được thấy ngay; còn những chúng sinh vô
duyên, thì dù có đối trước Phật vẫn không thấy được, cho đến các vị Thanh
Văn, Duyên Giác, tuy có thiên nhỡn thông cũng không thấy.
Lại nữa, Phật phóng ra ánh sáng lớn, chiếu
xuống tận địa ngục A tỳ, trên đến tận cùng các cõi trời, những chúng
sinh có duyên, với Phật thì đều được thấy; còn chúng sinh vô
duyên, thì dù có đối trước mắt cũng không thấy.
Có khi Như Lai, hoặc hứa khả,
hoặc mặc nhiên, nên biết đó đều là phương tiện của chư Phật
Thế Tôn, không thể nghĩ bàn được, không thể so lường được, khó thể biết được.
Vậy thì làm sao mà ông có thể hỏi Như
Lai được những hạnh khổ khó làm, rất sâu xa nhiệm mầu như thế?
Nhưng nay ông phát ra được lời hỏi ấy, thực là do lòng đại bi thương
xót chúng sinh, muốn ngăn đóng ba nẻo ác, khai thông lối nhân
thiên.
-A Nan! Nghe cho kỹ, Ta nay sẽ vì ông,
lượt nói về nhân duyên khổ hạnh hiếu dưỡng cha mẹ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn, bảo Tôn
giả A Nan, các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát, và tất cả đại chúng rằng:
-Về đời quá khứ lâu xa, vô
lượng A tăng kỳ kiếp, bấy giờ có một nước nọ, tên là Ba La Nại, trong
nước đó có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn.
Đức Phật đó sống lâu mười hai tiểu
kiếp, chính pháp ở đời, hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng
ở đời hai mươi tiểu kiếp, ở trong đời tượng pháp, có một ông vua
ra đời, tên là La Xà, có bốn nghìn người đại thần, năm trăm thớt voi. Vua
thống lãnh mười sáu tiểu quốc, tám trăm tụ lạc. Vua có ba vị thái
tử, đều làm vua ở bên các tiểu quốc.
Đại Vương La Xà ở nước Ba La Nại,
là người rất thông minh nhân đức, thường dùng chính pháp trị
quốc, không làm việc gì uổng hại nhân dân. Nhờ phúc đức của
nhà vua, mà được gió hòa mưa thuận, ngũ cốc phong nhiêu, nhân
dân an lạc.
Bấy giờ Đại Vương nước Ba
La Nại kia, có một người đại thần tên là La Hầu, khởi tâm ác
nghịch dấy bốn thứ binh: Tượng binh, xa binh, mã binh và bộ binh đến đánh nước Ba
La Nại, giết chết Đại Vương.
Sau khi giết Đại Vương xong rồi,
lại đem bốn binh, đến đánh các tiểu quốc, giết chết đệ nhất thái tử kế
đó lại đi bắt đệ nhị thái tử.
Người em út, làm vua ở một tiểu quốc,
hình thể của vua đẹp đẽ, to lớn, tính tình nhân hậu, nói thường mỉm
cười, và khi có nói ra điều gì đều đem lại lợi ích không tổn hại ý
người, thường dùng chính pháp trị nước, không uổng hại nhân
dân, cõi nước thịnh vượng an lạc, nhân dân đông đảo của
cải châu báu dư dật, gia kế sung túc, nhân dân trong
nước, ai cũng khen ngợi công đức của nhà Vua, tất cả chư Thiên,
tất cả thiên thần địa kỳ, cũng điều ái kính.
Bấy giờ Vua sinh hạ được một Thái tử,
tên là Tu Xà Đề, rất thông minh, nhân từ, hay làm việc bố
thí. Thân hình của Thái tử Tu Xà Đề, sáng láng
như sắc hoàng kim, bảy chỗ nơi cơ thể đều đầy đặn cân đối, nhân
tướng đầy đủ, tuổi mới mười bảy, Vua cha rất yêu quý, không bao giờ tạm dời
bên lòng.
Bấy giờ, có vị thần coi cung điện, báo mộng
cho Đại Vương biết rằng: “La Hầu đại thần, gần đây sinh tâm
ác nghịch, âm mưu cướp ngôi Vua, đã giết hại Phụ Vương La Xà, đồng
thời phát động bốn binh, tầm nã bắt hai anh của Đại Vương, kẻ phản
nghịch ấy, đã giết cả hai anh của Đại Vương và quân mã không bao lâu,
sẽ đến hãm hại Đại Vương, nay Đại Vương cần phải cấp thời trốn
đi, để bảo toàn tính mạng”.
Bấy giờ Đại Vương, nghe nói như vậy
rồi, trong lòng rất sợ hãi, dựng cả chân lông, thân thể giao động,
lo giận áo não, nghẹn ngào phiền muộn, tâm can não nhiệt, vật
vã ngã xỉu xuống đất, mãi hồi lâu mới tỉnh, rồi cất tiếng khẽ hỏi
trên hư không rằng:
-Người là ai? Sao chỉ nghe thấy tiếng,
mà không thấy hình, việc ngươi vừa nói có đích xác không?
Vị thần ấy liền báo cho Vua biết rằng:
-Tôi là thần coi cung điện Vua là người thông
minh phúc đức, không uổng hại nhân dân, thường dung chánh
pháp trị nước, vì vậy, mà tôi báo cho Vua biết; Đại Vương nay
nên cấp thời phải ra đi lánh nạn, nếu không họa hoạn khổ
não không lâu sẽ tới nơi!
Bấy giờ, Đại Vương liền vào
trong cung, tự suy nghĩ: “Ta nay nên phải cấp thời đi lánh
nạn, qua một nước láng giềng khác, để tránh những tai họa sẽ xảy đến”.
Lại tự suy nghĩ: “Nước láng giềng
kia mà ta định đến đó, có hai con đường: Một đường phải đi tới bảy ngày mới
đến; còn một đường phải trải quamười bốn ngày.”
Suy nghĩ như vậy rồi, Vua liền cho
chuẩn bị lương thực trong bảy ngày và cho đem ra ngoài thành một cách hết
sức cẩn mật.
Khi cho đem ra ngoài thành rồi, Vua lại
trở vào trong cung, gọi Thái tử Tu Xa Đề, bế để ngồi trên đầu gối, mắt
không lúc nào tạm rời, rồi lại đứng dậy, có vẻ kinh hãi, rồi lại ngồi
xuống.
Bấy giờ, phu nhân thấy Đại
Vương, có sự bất an, tựa hồ có điều gì lo sợ? Bà liền đến trước chỗ Vua hỏi
rằng:
-Đại Vương hôm nay, hình như có sự gì lo
sợ, nên có vẻ đứng ngồi không yên, thân thể bụi bặm lấp
láp, đầu tóc bơ phờ, mắt trông ngơ ngác, khí tức bất định, tựa như có điềm
mất nước, ân ái biệt ly, oan gia sắp sửa xảy đến, với những
tướng trạng bất tường như thế, xin Đại Vương cho thần thiếp được biết?
Vua bảo phu nhân rằng:
-Tôi có việc hệ trọng, nhưng không
phải việc mà phu nhân có thể biết được.
Phu nhân liền tâu Vua rằng:
-Tâu Bệ hạ! Thiếp cùng với Bệ hạ, khác
nào hai hình một thể, cũng như chim hai cánh, như thân thể với
chân tay, như đầu với mắt. Đại Vương ngày nay vì sao lại không cho thần
thiếp được dự biết!
Vua bảo phu nhân:
-Phu nhân không biết
sao! La Hầu đại thần, gần đây sinh tâm ác nghịch, đã giết
Phụ Vương, cướp ngôi Vua, và bắt giết cả hai anh, nay bọn chúng đang cử binh
mã, lần lượt sẽ đến đây bắt ta, nay ta muốn tránh mạnh, để khỏi những tai
họa ấy.
Nói rồi, tức thời ẵm Thái
tử Tu Xà Đề, ra đi để lánh nạn, và phu nhân cùng tùy
tùng theo sau.
Bấy giờ, vua vì tâm ý hốt hoảng rối
loạn, nên đi lầm phải con đường mười bốn ngày, con đường đó
lại rất nguy hiểm: Không có nước cỏ.
Đi được vài ngày, thì lương thực đã hết. Bản
ý trước đây chỉ chuẩn bị vừa số lương thực lộ hành cho một người trong thời
gian bảy ngày, nay phải dùng cho ba người, hơn nữa lại đi lầm vào con
đường tới mười bốn ngày, thì lương thực đã hết cả, trên đường đi lại xa
xôi hiểm trở.
Lúc đó, Đại Vương và phu
nhân cất tiếng khóc lóc: “Thực là xót xa đau đớn, cho chúng
tôi lắm! Chúng tôi từ khi sinh ra đời cho đến nay,
chưa từng có bao giờ bị khổ sở như thế này, tại sao ngày nay lại phải chịu như
thế, giờ đây đã đến lúc đường cùng, họa lại sắp sửa xảy tới nơi!”.
Nói rồi, giơ tay vỗ đầu, bụi đất lấm
láp, vật mình xuống đất tự hối trách rằng:
-Lũ chúng tôi đời trước, gây
nên những nghiệp ác gì? Hay là giết cha mẹ, chân nhân La
Hán? Hay là hủy báng Chính pháp? Hay là phá hoại hòa hợp Tăng?
Hay là làm nghề săn bắn tàn hại chúng sinh? Đong đầy khảo vơi? Cướp đoạt của
cải của chúng sinh? Hay là lạm dụng của cải của chúng Tăng?
Làm sao ngày này lại phải chịu những sự họa hoạn ấy? Giờ đây chính muốn dừng
nghỉ một chút, lại sợ oan gia ập tới, nếu để chúng bắt được, quyết sẽ
bị chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Còn nếu tiến tới, thì lại bị đói
khát bứt bách, tính mạng chỉ còn ngắn bằng hơi thở!
Bấy giờ, Đại Vương và phu
nhân suy nghĩ những sự khổ não như vậy rồi, thốt tiếng gào
khóc, buồn rầu, ngã xỉu ra đất, hồi lâu mới tỉnh. Lại tự suy
nghĩ: “Nếu không lập kế phương tiện, tất nhiên cả ba mạng người đều
không tránh khỏi chết, chi bằng ta nay sẽ giết Phu nhân, để lấy
thịt nuôi sống thân ta và bảo toàn tính mạng cho đứa con này.”
Nghĩ như vậy rồi, liền tuốt gươm, toan
giết Phu nhân.
Thái tử Tu Xà Đề thấy dị
tướng như vậy, tức thời tay bên phải đỡ lấy gươm, nắm chặt lấy
tay Vua cha, tâu rằng:
-Cha! Cha định làm gì thế hả
cha?
Bấy giờ, Phụ Vương buồn rầu khóc
lóc khẽ bảo Thái tử rằng:
-Ta nay muốn giết mẹ con nuôi
sống cha và bảo toàn tính mạng cho con, vì nếu không giết mẹ
con, thì tất cả chúng ta cũng sẽ chết, thân cha nay đây không biết sống
thác lúc nào, nay cha vì muốn cho con sống, nên cha có ý định giết
mẹ con!
Bây giờ, Thái tử Tu Xà Đề,
liền tâu với Vua rằng:
-Nếu cha giết mẹ con, con cũng
không ăn, vì chưa có bao giờ và ở đâu lại có những người con nào lại dám ăn
thịt của mẹ, đã chẳng dám ăn, tất nhiên con cũng sẽ chết. Vua cha
ngày nay sao lại không giết con đi, để cứu sống mạng cho mẹ.
Vua nghe con nói như thế, buồn rầu, vật
vã, ngất xỉu ra đất, nói nhỏ với con rằng:
-Con cũng như con mắt của ta, chưa
bao giờ và ở đâu lại có người tự khoét mắt của mình, để rồi tự ăn vậy, ta
nay thà bỏ thân mạng, trọn không bao giờ giết con để nuôi sống tính mạng của
ta cả.
Bấy giờ, Thái tử Tu Xà Đề thưa
với cha mẹ rằng:
-Con nay sẽ xin nguyện đem thâm mạng này
của con, để cúng dàng cha mẹ, cha mẹ ngày nay, nếu cắt thân
mạng con một lúc, thì không được bao nhiêu ngày, máu thịt sẽ bị hôi
thúi. Vậy kính xin cha mẹ, đừng giết chết ngay, và con nay chỉ
xin cha mẹ một điều, mong cha mẹ đừng làm trái ý con, nếu
trái con thì sẽ không phải là cha mẹ hiền từ của con nữa.
Bấy giờ, Vua cha bảo Thái tử rằng:
-Cha mẹ sẽ không làm trái ý con, con muốn
xin gì điều gì, thì con cứ nói ngay cho cha mẹ biết.
Thái tử Tu Xà Đề tâu rằng:
-Con nay chỉ xin cha mẹ cho
con một điều là: Cha mẹ hãy thương con, có thể ngày ngày đem dao, xẻo
thịt ở nơi thân thể của con, cắt chừng ba cân, và chia làm ba phần,
hai phần để dâng cha mẹ, còn một phần để cho con ăn, để tự nuôi sống tính
mạng.
Bấy giờ cha mẹ, liền theo như lời
của con nói, ngày ngày cắt ba cân thịt, và chia làm ba phần: Hai phần chia
cho cha mẹ, còn một phần cho con ăn, để tạm sống, chống đỡ thân
mạng, mong đi được đến nơi đến chốn.
Thời gian chưa được hai ngày, thịt ở
nơi thân thể của Thái tử đã hết, chỉ còn da dính với
xương, tuy nhiên vẫn còn có một vài chút thịt dư chưa hết hẳn, vì
quá kiệt sức, Thái tử liền ngã ngất ra đất.
Bấy giờ, cha mẹ liền ôm lấy Thái
tử, cất tiếng gào khóc nói rằng:
-Con ơi! Cha mẹ thực là người vô
dụng, ăn cả thịt con khiến cho con phải đau đớn như thế này! Nay đường
hãy còn xa, chưa đến được nơi đã định, mà thịt con cũng đã hết, tất nhiên đều sẽ
bỏ thây cả ở đây!
Bấy giờ, Thái tử Tu Xà Đề,
nói nhỏ với cha mẹ rằng:
-Kính thưa cha mẹ, con dâng thịt của
con để cúng dàng cha mẹ, đã đi được tới nơi đây, tính ra đường
trường chỉ có một ngày nữa là tới, mà thân thể con nay không còn làm
sao cử động được nữa, chắc con sẽ bỏ tính mạng ở nơi đây mất,
con sẽ không còn có thể theo cha mẹ cùng đi được nữa, xin cha mẹ ngày
này, không nên nghĩ ngợi theo thói thường tình, để rồi cũng bị chết cả
ở nơi đây, con kính xin cha mẹ một điều, cha mẹ hãy thương
xót con, và xin chớ trái lòng con, cha mẹ hãy cắt nốt những chỗ
thịt còn sót ở các lóng đốt của con, dùng nuôi sống cha mẹ cho qua
ngày để đi đến cho được chỗ mà cha mẹ đã định.
Bấy giờ, cha mẹ liền làm theo
lời con, lại cắt nốt thịt còn dư ở các lóng đốt, và chia làm ba phần: Một phần
cho con ăn, còn hai phần thì mình ăn. Ăn xong rồi cha mẹ liền từ
biệt con để ra đi.
Tu Xà Đề đứng dậy, trông
theo cha mẹ cho đến khi khuất dạng mới thôi.
Bấy giờ cha mẹ đều cất tiếng gào
khóc thảm thiết, dõi theo đường mà đi. Khi cha mẹ ra đi rồi, Thái
tử Tu Xà Đề, vì luyến mộ cha mẹ, mắt nhìn đăm đăm không rời,
hồi lâu liền ngã xỉu ra đất.
Hương vị của máu thịt tươi ở nơi thân
thể của Thái tử xông lên cả mười phương, các loài ruồi nhặng
ngửi thấy, liền bau lại, đậu khắp cả trên thân thể, để ăn hút, đau đớn nhức
nhối, không thể nào nói cho xiết được.
Bấy giờ, Thái tử thấy còn có
chút ít thịt dư ở nơi thân mạng chưa hết, liền lập thệ nguyện
rằng:
-Nguyện đời trước có điều gì oán ác, từ
đây sẽ trừ sạch hết, và từ ngày nay trở đi, sẽ không dám làm nữa. Nay tôi
đem thân này để cúng dàng cha mẹ tôi, nguyện cha mẹ tôi,
thường được mười một điều phúc đức:
1. Khi ngủ được an vui
2. Khi thức cũng được an vui
3. Không thấy ác mộng
4. Chư Thiên thường ủng hộ
5. Mọi người đều ái kính
6. Không gặp phải những sự kiện tụng,
huyện quan.
7. Không bị trộm cắp
8. Không bị giặc dã
9. Không bị mưu hại
10. Không bị tiêu diệt
11. Gặp việc gì, cũng đều được tốt
lành.
Và còn bao nhiêu những máu thịt còn sót
lại ở nơi thân thể này, xin đem bố thí cho các loài ruồi muỗi
v.v… đều khiến cho được no đủ, khiến cho tôi đời sau được thành
Phật, khi được thành Phật rồi sẽ đem thức ăn bằng giáo
pháp, trừ trọng bệnh sinh tử đói khát cho tất cả chúng sinh.
Khi Thái tử Tu Xà Đề phát
nguyện như thế rồi, trời đất bỗng phát khởi sáu thứ rung động, mặt
trời ẩn mất cả tinh quang, các loài cầm thú, sợ hãi ruổi chạy
tản mác khắp bốn phương, nước ở đại hải nổi sóng dữ dội, núi
Tu Di khuynh đảo, dao động, mãi đến cõi trời Đao Lợi, cũng đều
rung chuyển mạnh mẽ.
Bấy giờ Vua Thích Đề Hoàn Nhân, liền
đem chư Thiên ở dục giới, đi xuống cõi Diêm Phù Đề,
hóa làm những loài sư tử, hổ lang, trợn mắt, dậm chân, gào rống, chờn
vờn nhảy nhót, như muốn lại vồ bắt để ăn thịt, thử xem Thái tử có sợ
hãi thoái tâm hay không?
Bấy giờ, Thái tử Tu Xà Đề,
coi thấy các loài cầm thú, có vẻ ra oai dữ tợn lắm, Thái tử mới
dùng lời nhỏ nhẹ bảo rằng:
-Nếu các người muốn ăn thịt ta,
thì tùy ý mà ăn, chớ sao lại làm cho ta phải sợ hãi như thế?
Bấy giờ Vua Thiên Đế Thích mới
nói rằng:
-Ta không phải sư tử, hổ lang đâu,
mà là Thiên Đế Thích muốn lại đây để thử ngươi vậy!
Bấy giờ, Thái tử thấy Thiên
Đế Thích, thì trong lòng rất vui mừng.
Thiên Đế Thích mới hỏi Thái tử rằng:
-Nhà ngươi hay bỏ được những việc khó bỏ. Ngươi
ngày nay đen cả thân thể xương thịt để cúng dàng cha mẹ, có những công
đức như vậy, để nguyện sinh làm Thiên ma vương, Phạm
vương, Thiên vương, Nhân vương, hay Chuyển luân thánh
vương?
Tu Xà Đề trả lời với Thiên
Đế Thích rằng:
-Tôi ngày nay cũng chẳng nguyện
sinh làm Thiên ma vương, Phạm vương, Thiên vương, Nhân
vương, hay Chuyển luân thánh vương, mà tôi chỉ muốn cầu đạo Vô
Thượng Bồ Đề, để độ thoát cho tất cả chúng sinh mà thôi.
Thiên Đế Thích nói rằng:
-Ngươi thật là đại ngu, đạo Vô
Thượng Chính đẳng Chính giác, phải chịu cần khổ rất lâu, rồi sau mới
thành, ngươi nay làm sao lại có thể chịu đựng được những sự cần
khổ ấy?
Tu Xà Đề trả lời Thiên Đế
Thích rằng: -Giả sử vòng sắt nung đỏ để ở trên đâu, nhưng trọn sẽ không vì
những sự ấy, để cho thoái đạo Vô Thượng.
Thiên Đế Thích nói rằng: -Ngươi chỉ
nói suông thì làm sao mà có thể tin chắc được?
Tu Xà Đề liền lập thệ nguyện:
-Nếu tôi nói dối Thiên Đế Thích, thì thân thể của tôi sẽ mãi
mãi bị chia lìa, còn không như vậy, thì nguyện sẽ được bình phục như
cũ, máu huyết trở lại trắng thành sữa.
Thái tử phát nguyện vừa dứt lời,
tức thì thân thể bỗng bình phục như cũ, máu huyết lại trở
lại trắng thành như sữa, hình dung thân thể đẹp đẽ gấp
bội lúc trước.
Bấy giờ Thiên Đế Thích liền
khen ngợi rằng:
-Quí hóa thay! Quí hóa thay! Ta nay
không thể bì kịp ngươi, ngươi tinh tiến dũng mãnh không
bao lâu sẽ chứng đạo Vô Thượng Chính đẳng Chính giác, nếu khi chứng
được đạo Chánh đẳng chánh giác nguyện độ cho ta trước.
Bấy giờ Thiên Đế Thích, ở
trên hư không, liền ẩn chẳng hiện.
Lúc ấy Vua và phu nhân đi
tới được nước láng giềng. Khi đó, Quốc Vương ở nước kia, liền ra
rất xa để nghênh tiếp, cung cấu đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý.
Bấy giờ Đại Vương mới thuật rõ
với vị Quốc Vương kia tất cả sự tình như trước: Nào là con
tôi rất hiếu dưỡng, đem cắt cả thịt ở nơi thân thể để cúng dàng
cho cha mẹ v.v...
Bấy giờ vị Quốc Vương ở nước
láng giềng kia, nghe nói như vậy rồi, rất lấy làm cảm mến Thái tử Tu Xà
Đề: Hay bỏ được những việc khó bỏ, đem thân thể, huyết nhục cúng
dàng cha mẹ, hiếu dưỡng như thế thực là hiếm có!
Vì cảm mến những đức hạnh từ
hiếu như vậy, mà Quốc Vương kia, tức thì phát khởi bốn đạo
binh trở về cùng với Đại Vương để diệt trừ kẻ phản
nghịch đại thần La Hầu gian ác.
Bấy giờ, Đại Vương liền đem bốn
binh, thuận đường trở về, đồng thời, Vua La Xà cùng với Phu nhân tìm
đến chỗ Thái tử Tu Xà Đề, nơi mà trước đây cha con đã
từ biệt nhau, với một ý nghĩ: Con ta đàng nào cũng đã chết rồi, nay ta sẽ thu
nhặt hài cốt của con, đem trở về bản quốc. Vì lòng
thương con quá, nên vừa dõi theo đường lối tìm kiếm, vừa gào khóc rất thảm
thiết.
Nhưng bỗng xa trông thấy con, thân
thể vẫn bình phục như trước, lại có phần đoan chính đẹp
đẽ gấp bội thường, liền đến trước, bồng ẵm lấy con, trong lòng vừa thương
vừa mừng, hỏi Thái tử rằng:
-Con! Con vẫn còn sống!
Bấy giờ Thái tử Tu Xà Đề liền
đem tất cả sự tình như trên kể cho cha mẹ nghe.
Cha mẹ rất vui mừng, rồi cùng
nhau dùng voi đài tải, trở về bản quốc.
Vì Thái tử Tu Xà Đề có phúc
đức rất lớn, nên đánh lấy lại được nước, và lập Thái tử lên
làm Vua.
Bấy giờ Phật bảo Tôn giả A Nan:
-Phụ Vương lúc bấy giờ, hiện nay là cha
Ta Duyệt Đầu Đàn, phu nhân lúc bấy giờ, hiện nay là mẹ Ta, Ma
Da phu nhân; còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là Ta, Thích
Ca Mâu Ni Như Lai; còn Thiên Đế Thích lúc bấy giờ, nay là ông Kiều
Trần Như này vậy.
Khi Phật nói về sự hiếu dưỡng cha
mẹ ấy, trong chúng có hai mươi ức Bồ Tát, đều chứng được biện
tài vô ngại, lợi ích tất cả.
Lại có mười hai vạn Bồ Tát, đều chứng
được biện tài vô ngại, lợi ích tất cả.
Lại có mười hai vạn Bồ Tát, đều chứng
được vô sinh pháp nhẫn.
Lại có các vị Bồ Tát nhiều như
những hạt vi trần ở khắp mười phương tới, đều chúng được Đà
la ni môn.
Lại có các vị Thanh Văn, Duyên
Giácnhiều như số cát sông Hằng, Như vi trần lìa bỏ tâm Nhị
thừa, hướng về Nhất thừa cứu kính.
Lại có các Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di,
nhiều như số vi trần, hoặc chứng được sơ quả, cho đến nhị
quả.
Lại có trăm nghìn người phát tâm Vô
Thượng Chính đẳng Chính giác.
Lại có các chư Thiên, Long, Quỷ
thần. Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma
hầu la già, Nhân và Phi nhân, hoặc phát tâm Bồ Đề, cho
đến phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Phật bảo Tôn giả A Nan:
-Bồ Tát vì tất cả chúng sinh làm
những khổ hạnh khó làm, hiếu dưỡng phụ mẫu, đem thân
thể huyết nhục, cung cấp cho cha mẹ, việc đó như thế.
Tất cả đại chúng, nghe Phật nói
pháp, đều được những sự ích lợi thù thắng, vui mừng làm lễ
Phật, rồi quanh về phía bên phải mà lui trở ra.
Comments
Post a Comment