KIM CANG BÁT NHÃ

KINH SỚ LUẬN TOÁT YẾU


Đời Đường, Tông Mật thuật Tống Tử Tuyền Trì Định



PHẦN MỘT



Gương tâm vốn tịnh, hình sắc nguyên không, mộng thức vô sở, vật cảnh thành có. Do bởi, hoặc nghiệp quen tập, báo ưng xoay vòng, trần sa kiếp ba, chẳng hề dứt tuyệt.

Vì vậy Ta Mãn Tịnh giác giả hiện tướng trong cõi loài người, trước thuyết nhân duyên sanh diệt, khiến ngộ khổ tập diệt đạo, đã trừ ngã chấp, chưa đạt pháp không, muốn tận gốc bệnh, mới thuyết Bát Nhã: Tâm cảnh đều dứt, tức là chân tâm. Nhơ sạch đều mất, tất cả thanh tịnh.

Tam Thiên rực rở mười sáu hội, nay sở truyền này, tức phần thứ chín. Câu kệ thì ẩn mật tóm tắc, chỉ thú thì thâm sâu vi tế. Trí huệ triệt suốt cả ba không, bố thí bao hàm cả vạn hạnh. Trú mười tám xứ, mật bày giai sai, đoạn hai mươi bảy nghi, ngầm thông huyết mạch.

Nếu chẳng trước khiển trừ thì lấy gì khế với như như. Tuy thúc dục tu nhưng thủy chung vẫn là vô tướng. Do đây giáo và lý đều mật, hạnh và quả đều huyền, đến nổi khiến cho miệng tụng lông trâu, tâm thông sừng Lân.

Phối vào Danh tướng thì chấp trước sự, sai trái Tông, hoặc chỉ nói Nhất Chân thì vọng nguồn mà lại mê phá, ngoài ra đều là giải thích cạn cợt, chẳng đáng để bàn vậy! Trân bảo Hằng Sa, thân mệnh ba thời, chỗ dụ chẳng bằng, há uổng vậy ư! Vả lại, Thầy Thiên Thân, Thầy Vô Trước là những sư Bổ xứ, tôn hậu học nghi nghi gì, hoặc thêm hoặc bỏ.

Vì vậy mà nay chú thích Kinh này, chẳng công dị đoạn, sớ văn luận này, sửa chẳng trong thành: Trước tiên là Toản yếu danh ý và Đề Mục tên Kinh, sau đó là giải thích.

Chẳng phiền dự rằng:


Cúi lạy Mâu Ni Đại Giác Tôn

Năng Khai Bát Nhã tam không cú

Phát khởi lưu thông chư Thượng Sĩ

Ngầm giúp văn này khế quần cơ.


Giải thích Kinh này, trước khi vào văn, nói về nghĩa chung, khai ra bốn đoạn:

 

1. Nhân duyên giáo khởi.

2. Tông Thể của Kinh.

3. Phân biệt xứ hội.

4. Giải thích văn nghĩa.



PHẦN HAI

NHÂN DUYÊN GIÁO KHỞI



Luận chung chư giáo:

 

Đó là báo đáp Nhân, báo đáp thỉnh mà hiểu tỏ lý để độ chúng sanh. Nếu theo Phật bổn ý thì duy chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian. Muốn khiến chúng sanh khai Phật tri kiến.

 

Luận riêng Kinh này: Có năm phần:

 

1.- Vì để đối trị hai chấp, ngã chấp và pháp chấp. Do từ hai chấp này mà khởi hai chướng. Phiền não chướng và Sở tri chướng. Do từ phiền não chướng, làm chướng ngại tâm, tâm chẳng giải thoát, tạo nghiệp thọ sanh, luân chuyển ngũ đạo. Do Sở tri chướng, làm chướng ngại huệ, huệ chẳng giải thoát.

Chẳng liểu tự tâm, chẳng đạt chư pháp tính tướng thì dù có xuất Tam Giới cũng bị trệ ở Nhị Thừa, chẳng đắc thành Phật, cho nên gọi đó là chướng. Hai chấp nếu trừ thì hai chướng theo đó mà đoạn. Vì để trừ hai chấp mà thuyết Kinh này.

 

2.- Vì để ngăn chặn, đoạn dứt hai mối nghi chủng tử và hiện hành: Ngăn chặn những mối nghi chưa khởi chủng tử. Đoạn dứt những mối nghi hiện khởi hiện hành, tức là ở trong Kinh sau khi đã trả lời xong những điều đã hỏi, liền theo đó từng tiết một mà đoạn nghi, cho đến cuối Kinh gồm hai mươi bảy đoạn.

 

3.- Vì để chuyển và diệt hai nghiệp năng và nhẹ: Chuyển nghiệp nặng thành ra thọ quả nhẹ, diệt nghiệp nhẹ thành chẳng thọ thành Chánh Giác, trước kia chưa thuyết Bát Nhã, chúng sanh do vì không có diệc huệ. Trú tướng mà bố thí, nhẫn nhục… đều thành hữu lậu, hoặc bị trệ ở Nhị Thừa.

 

4.-Vì vậy mà thuyết Bát Nhã hiển thị rõ diệu huệ, làm nhân cho Pháp Thân. Năm độ kia làm nhân cho ứng thân. Nếu không có Bát Nhã thì năm độ kia chẳng phải là Bà La Môn, chẳng gọi là nhân Thành Phật, cho nên cần phải hai nghiêm, phước và huệ, mới thành Lưỡng Túc Tôn vậy.

 

5.- Vì để phát minh hai quả. Chân thân và ứng thân : Trước khi chưa nghe Ứng Hóa Thân: Trước khi chưa nghe Bát Nhã, chỉ nói rằng sắc tướng là Phật, chẳng biết rằng ứng Hóa Thân chỉ là cái bóng của chân thân, chẳng như thật thấy chân thân Ứng Thân. Vì vậy mà Kinh này phát minh hai quả, khiến biết do từ hai nhân trước kia mà chứng đắc.

 


PHẦN BA

TÔNG THỂ CỦA KINH



TÔNG: Xét chung những lời Phật dạy là lấy nhân duyên làm Tông. Riêng về Kinh này thì Thật Tướng Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, bất nhất bất nhị, lấy đó làm Tông, dùng cái trí của tức lý để quán chiếu chư tướng, giống như Kim Cang đoạn dứt tất cả, cái lý tức trí ấy là thật tướng, giống như Kim Cang cứng rắm khó hư hoại, trong vạn hạnh mỗi một hạnh, chẳng thể hôn muội điều đó, do vậy hợp chúng lại lấy đó làm Tông Kinh.

 

THỂ: Văn Tự Bát Nhã tức là thể của Kinh. Văn tự thì bao gồm cả thanh tiếng, danh, cú, văn. Văn tự tính không, tức là Bát Nhã. Vì không có một thể văn tự riêng biệt cho nên đều bao trùm. Lý vô bất tận, hợp lại làm giáo thể.

 


PHẦN BỐN

PHÂN BIỆT XỨ HỘI TRUYỀN DỊCH

 

Về  XỨ HỘI : Phật Thuyết Đại bộ xứ hội sáu trăm quyển văn.

 

Thuyết ở bốn XỨ nơi chốn mười sáu HỘI :

 

Xứ thứ nhất là ở Vương Xá thành, Linh Thứu Sơn thuyết bảy hội bốn hội thuyết ở giữa núi, ba hội thuyết ở đỉnh núi.

 

Xứ thứ hai là thuyết ở vườn Cấp Cô Độc, bảy hội.

 

Xứ thứ ba là thuyết ở Tha Hóa Thiên Cung tại ma Ni Bảo Tàng điện, một hội.

 Xứ thứ tư là thuyết ở Vương Xá Thành, tại vườn Trúc Lâm bên Hồ Bạch Lộ hồ con cò một hội.

 

Kinh này là Xứ thứ hai, hội thứ chín, quyển thứ năm trăm bảy mươi bảy.

 

Về TRUYỀN DỊCH: Kinh quyển này, thời đại mà người dịch trước sau có sáu bản dịch.

 

1.- Hậu tần, Ngài Cưu Ma La Thập.

2.- Hậu Ngụy, Ngài Bồ Đề Lưu Chi.

3.- Trần triều, Ngài Chân Đế.

4.- Tùy Triều, Ngài Cấp Đa.

5.- Đường Sơ, Ngài Huyền Trang.

6.- Đại Châu, Ngài Nghĩa Tịnh.

 

Sáu người trên đều là Tam Tạng. Nay sở truyền ở đây là của Ngài La Thập, Niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ tư, dịch ở tại Chùa Thảo Đường, trường An.

 

Ở Thiên Trúc, có Ngài Vô trước Bồ Tát, nhập vào Nhật Quang Định, thăng lên cung Trời Đâu Suất, gặp Di Lặc truyền thụ tám mươi hàng kệ, rồi đem kệ này chuyển truyền trao cho Ngài Thiên Thân, Ngài Thiên Thân viết ra thành trường hàng gòm ba quyển luận, dựa theo đoạn nghi chấp để giải thích.

 

Ngài Vô Trước còn viết thêm hai quyển luận, dựa theo Hiển Hành hạn vị để giải thích. Nay ở đây chia Kinh chỉ dựa theo giải thích nghĩa của Ngài Thiên Thân, tức là kiêm luôn cả của ngà Vô trước, thêm vào đó là tìm cầu ở các bàn luận khác, chọn lọc sưu tập các chú thích, đề tên luận này là Toát yếu.

 


PHẦN NĂM

GIẢI THÍCH TÊN KINH VĂN KINH

 

Giải thích TÊN KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT KINH:

 

KIM CANG: Tiếng phạm là Bạt Chiết La. Cái chày mà các lực sĩ cầm, là bảo vật đó.

Chất cương cứng nhất trong vàng kim gọi đó là Kim Cang. Đế Thích có bảo vật đó, kẻ phước mỏng khó mà thấy được nó, cực kỳ kiên cứng, cực kỳ sắc bén, dụ cho Bát Nhã. Không có vật nào làm hư hoại nó, mà nó lại có thể đập tan vân vât.

Kinh Niết Bàn nói: Thì như Kim Cang, không có vật nào phá hoại nó được, mà nó lại có khả năng đập tan tất cả mọi vật.

Ngài Vô Trước nói rằng: Kim Cang khó hoại.

Lại nói: Kim Cang năng đoạn.

Còn nói: Kim Cang là tế lao. Tế vi tế là Nhân của trí. Lao kiên lao là chẳng hư hoại.

Đều lấy sự kiên cứng để dụ cho thể của bát nhã, bén nhọn lợi dụ cho dụng của Bát Nhã.

Lại nữa, quyển ký của Ngài Chân Đế nói về sáu loại Kim Cang:


1.- Màu xanh da trời, tiêu tai ách, dụ cho Bát Nhã tiêu trừ nghiệp chướng.

2.- Màu vàng: Tùy theo nhu cầu của con người, dụ cho vô lậu công đức.

3.- Màu đỏ: Đối trước với mặt trời thì sanh ra ngọn lửa. Huệ đối trước với Bổn Giác thì xuất ra ngọn lửa vô sanh trí.

4.- Màu Trắng: Làm trong nước đục, Bát Nhã làm trong sạch những mối nghi trọc đục.

5.- Không màu: Làm cho người ta đi đứng trong không gian. Huệ phá pháp chấp, trú vào lý không.

6.- Màu ngọc bích màu xanh lá cây làm tiêu tan các độc. Huệ trừ ba độc. Kim Cang còn có thể kiêm thêm những tính chất khác, chẳng phải là bổn dụ về kiên cứng bén nhọn.

 

BÁT NHÃ: Chánh dịch là huệ, tức là soi chiếu ngũ uẩn không. Huệ tương ưng với Bổn Giác. Nếu theo người Học từ cạn đến sâu mà nói thì nhiếp chung cả ba huệ. Văn huệ, tư huệ, tu huệ, đó là Bát Nhã.

Ngài Vô trước nói: Năng đoạn là trong Bát Nhã Ba La Mật, văn tư tu sở đoạn, cũng giống như Kim Cang đoạn xứ mà đoạn.

Lại nói: Tế là nhân của trí, nhân trí tức là huệ.

Theo Trí Độ Luận: Nhân vị gọi là Bát Nhã, quả vị gọi là trí thì văn, tư, tu đều gọi là tế nhỏ nhiệm, cái huệ nhỏ nhiệm là nhân của Phật Trí vậy!

Vì Bát Nhã là năng đoạn cho nên ở tại Nhân Vị, đến Phật Quả thì không còn đoạn nữa, cho nên đổi tên gọi là trí. Nếu theo Đại phẩm Kinh Kinh Đại Bát Nhã thì Bát Nhã thông cả hai nghĩa trí và huệ, cho nên trí và huệ, về mặt danh nghĩa thì có hơi khác nhau nhưng về mặt thể tính thì giống nhau.

BA LA MẬT: Tiếng Hán gọi là bỉ ngạn đáo, đúng thì phải gọi là đáo bỉ ngạn. Nghĩa là lìa khỏi bờ bên này sinh tử độ qua giữa dòng phiền não, đến bờ bên kia Niết Bàn. Niết Bàn, tiếng Hán gọi là Viên Tịch, còn gọi là Diệt Độ.

Tất cả chúng sanh tức tịch diệt tướng, chẳng còn diệt nữa, chỉ vì mê đỏa, vọng thấy sanh tử gọi là đang ở tại bở bên này, nếu ngộ sanh tử vốn không, nguyên lai vốn Viên Tịch thì phải nói là huệ đến bờ bên kia.

Kinh: Tiếng phạm là Tu Đa La, dịch nghĩa là Khế Kinh.

Khế: Là thuyên biểu nghĩa lý, khế hợp với lòng người, tức là khế lý khế cơ.

KINH: Cuốn Phật Địa Luận nói: Xuyên suốt, thâu tóm, gọi đó là Kinh. Vì Phật Thánh Giáo xuyên suốt những nghĩa lý đã thuyết, nhiếp trì những chúng sanh được giáo hóa, cho nên gọi là Kinh.

 

Giải thích VĂN KINH: Theo thường lệ chia ra ba phần:

 

1. Tự phần.

2. Chánh tông phần.

3. Lưu thông phần.



PHẦN SÁU

TỰ PHẦN



Gồm hai phần: Chứng tín tự và phát khởi tự.

 

CHỨNG TÍN TỰ

 

Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên. Dử đại Tỳ Kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu.

Giải thích đoạn văn trên, chia ra ba phần:

 

1.- Nhân kiếp lập: Khi Phật sắp diệt độ, A Nan thỉnh hỏi bốn sự việc, Phật đáp từng sự việc một:

Sau khi ta diệt độ: Theo bốn niệm xứ mà trú.

Lấy giới làm Thầy.

Mặc tẩn Tỳ Kheo tính xấu.

Đầu tất cả Kinh đều nói rằng: như thị ngã văn, nhất thời Phật tại xứ nào đó, cùng chúng nào đó, bao nhiêu người.

 

2.- Ý kiếp lập: Có ba ý:

Để đoạn nghi: Khi kết tập Kinh Điển, A Nan thăng tòa, muốn tuyên Phật Pháp, cảm được tự thân mình tướng tốt như Phật, chúng khởi ba điều nghi:

 

Một nghi Phật sống lại Thuyết Pháp.

Hai nghi Phật ở phương khác đến.

Ba nghi A Nan thành Phật. Vì vậy mà nói những lời như trên thì cả ba điều nghi đều đoạn dứt.

 

Để dập tắt tranh cải: Nếu chẳng nói là nghe từ nơi Phật, mà nói là tự mình chế tác ra thì ắt sẽ khởi tranh luận.

Để khác với tà: Chẳng đồng với đầu Kinh của ngoại đạo nói rằng A Ưu…

 

3.- Giải thích văn nghĩa: Đủ sáu thành tựu, đó là Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng. Sáy duyên chẳng đủ, giáo ắt chẳng hưng, cần phải đủ sáu, cho nên gọi là Thành Tựu.

Tín: Nếu Ngã và Văn hợp lại giải thoát thì đó là từ ngữ chỉ về pháp. Pháp như vậy, tôi nghe từ Phật. Giải thích riêng từ như thị.

Trí Độ Luận nói rằng: Tín nghe từ Phật. Giải thích riêng từ như thị.

Trí Độ Luận nói rằng: Trí thành tựu. Biển lớn Phật Pháp, tín là năng nhập, trí là năng độ. Người tin thì nói rằng sự việc ấy nhưv ậy, người chẳng tin thì nói rằng sự việc ấy chẳng như vậy. Lại nữa, Thánh nhân Thuyết Pháp chỉ vì để hiển rõ như, duy chỉ như là thị là đúng, là phải, cho nên xưng là như thị.

Lại nữa, hữu và vô chẳng hai khác hữu vô bất nhị là như như phi hữu phi vô là thị.

Văn: Ngã tức là ngũ uẩn giả của A Nan. Văn. Nghĩa là nhĩ căn phát thức, bỏ miệng mà theo chung, cho nên nói là Ngã Văn A Nan chẳng nghe những hai mươi năm trước.

Có người nói: Là Như Lai thuyết lại.

Có người nói: A Nan đắc Tam Muội thâm sâu mà tổng lảnh nạp. Nếu suy tận bổn gốc mà nói thì A Nan là Đại quyền Bồ Tát, pháp nào chẳng thông.

Thời: Sư tư hợp hội, thuyết nghe xong xuôi, cho nên nói là Nhất thời các phương tiện hời gian, dài ngắn khác nhau, nên chỉ nói nhất. Lại nữa, khi Thuyết Pháp và lảnh pháp, tâm và cảnh manh, Lý và trí dung hòa, phàm và Thánh như, Bổn và Thủy hội. Những hai đó đều cùng một thời.

Chủ: Là Phật, gọi cho đủ là Phật Đà, tiếng Hán gọi là Giác.

Khởi Tín Luận nói: Cái gọi là Giác, nghĩa là tâm thể ly khỏi Niệm, rời niệm tướng, ngang bằng với Hư không giới, tức là Như Lai bình đẳng Pháp Thân, tức lấy vô niệm gọi đó là Phật.

Giác có ba nghĩa:

1. Tự giác, Giác tri tự tâm mình vốn vô sanh vô diệt.

2. Giác Tha: Giác hết thảy pháp đều là như.

3. Giác Mãn: Hai giác trên lý viên tròn, gọi đó là mãn, cho nên biết hữu niệm chẳng gọi là giác.

Khởi Tín luận nói: Tất cả chúng sanh chẳng gọi là giác. Vì từ vô thủy đến nay niệm niệm liên tục nối nhau chưa từng rời niệm.

Lại nói: Nếu có chúng sanh năng quán vô niệm thì đó là hướng đến Phật trí.

Xứ: Xá vệ: Tiếng Hán gọi là Văn vật, nghĩa là có đầy đủ dục trần, tài bảo, đa văn, giải thoát nổi tiếng các nước.

Ngài Nghĩa Tịnh dịch là: Danh Xưng Đại thành. Kỳ Thọ… tức là cây do Kỳ Đà Thái Tử thí cho, vườn do Cấp Cô Trưởng Giả mua. Kỳ Đà. Tiếng Hán gọi là chiến thắng, là Thái Tử của Vua Ba Tư Nặc, khi sinh ra Thái Tử, Vua chiến thắng giặc nước ngoài. Vì vậy lấy đó mà đặt thì.

Tiếng phạm gọi là Tu Đạt, tiếng Hán gọi là Thiên Thí, Cấp Cô Độc tức là Thiện Thí còn gọi là Thường Hành Thí. Ở Tây quốc gọi Chùa tự là Tăng Già Lam, tiếng Hán gọi là chúng viên vườn chúng.

Chúng Dữ: Là cùng, là và. Đại là danh cao đức trước Tỳ Kheo là tiếng phạm, nó gồm ba nghĩa, vì vậy mà giữ nguyên âm tiếng phạm không dịch.

1. Bố ma.

2. Khất Sĩ.

3. Tịnh giới.

Chúng. Là lý hòa, sự hòa. Thiên Nhị Bách Ngũ Thập. Phật sơ thành đạo, độ nhóm Kiều Trần như năm người, tiếp đó độ ba anh em Ca Diếp, kiêm luôn đồ đệ tổng cộng một ngàn, tiếp nữa độ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, kể cả đồ chúng mỗi vị một trăm người.

Tiếp nữa độ nhóm con trai của Da Xá Trưởng Giả năm mươi người. Không nêu ra con số trên, cho nên bỏ con số lẻ năm người chúng này thường theo Phật, nêu chỉ kê ra con số, chẳng phải không có những chúng khác, phần cuối Kinh sẽ hiểu rõ mà thôi. Câu. Là cùng một thời, cùng một Xứ.

 

PHÁT KHỞI TỰ

 

Khất thực oai nghi, rời khỏi tà mệnh, đó là trì giới. Giới nuôi dưỡng định, định phát ra huệ. Nhờ Giới và định mà phát khởi Bát Nhã chánh tông.

 

Văn chia ra hai phần:

 

GIỚI: Nhĩ thời Thế Tôn thực thời trước y trì bát nhập xá vệ đại thành khất thực, ư kỳ thành trung.

 

Thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ Chia ra bảy tiết để giải thích:

 

1.- Hóa Chủ: Thành Thật Luận nói: Đủ chín hiệu trên, được vật khâm trọng, nên gọi là Thế Tôn. Trên Trời, nhân gian cùng nhau tôn trọng.

 

2.- Hóa Thời: Thực Thời giờ thìn, đúng sơ phần ngày, cầu xin dể được, chẳng phiền mình người, xin xong về vườn, vừa đúng giờ Tị, như thường trai pháp.

 

3.- Hóa Nghi: Mặc áo Tăng Già Lê, ôm bát bốn Thiên Vương hiến cúng.

 

4.- Hóa Xứ: Vườn tại đông nam thành, cách thành năm sáu dặm, từ ngoài vào trong là Nhập, xứ rộng người nhiều là Đại.

 

5.- Hóa Sự: Phật muốn hiển công đức Đầu Đà, để những người nhác nhớm cảm thấy hổ thẹn, dùng phương pháp đồng sự để thâu nhiếp họ, vì vậy mà tự mình khất thực.

Anh Lạc Nữ Kinh nói: Thân của Hóa Phật giống như toàn khối Kim Cang, không có hai tạng sanh và thục.

Nay những người được khất xin là Lợi ích cho họ, cho nên Kinh Tịnh Danh nói: Vì chẳng ăn, cho nên phải nhận thức ăn.

 

6.- Hóa Đẳng:

Do trong chứng lý bình đẳng, ngoài chẳng thấy tướng nghèo giàu.

Vì tâm đã lìa khỏi tham và mạn, vì từ bi nên chẳng thiên lệch làm lợi cho riêng ai.

Bày tỏ oai Đức: Chẳng sợ những nhà nuôi voi dử, quán rượu, nhà chứa.

Dập tắt những hiềm nghi của phàm phù.

Phá sự phân biệt của Nhị Thừa.

 

7.- Hóa Chúng: Nghĩa của chữ Dĩ Xong, rồi thuộc văn câu dưới liền với câu trên. Nghĩa của chữ Phạm Thực thuộc câu trên, văn liền với câu dưới.

 

Nếu mở rộng câu văn để cho câu văn đầy đủ thì nên nói: Thứ đệ khất thực xong, về đến bổn xứ ăn cơm, ăn cơm xong. Cất y bát. Phật nếu chẳng ăn thì phước của người cho chẳng đầy.

 

Bảo Vân Kinh nói: Tùy chỗ xin được, chia làm bốn phần:

 

1.- Nghĩa để cho người đồng phạm hạnh.

2.- Nghĩ để cho người nghèo, người bệnh, người ăn xin.

3.- Những chúng sanh ở dưới nước, ở trên đất liền.

4.- Tự mình ăn. Kinh Thập Nhị Đầu Đà chỉ nói ba phần, bỏ phần phạm hạnh.

 

ĐỊNH: Phạm thực ngật, thu bát, tẩy túc dĩ phô tòa nhi tọa.

 

Chia ra ba tiết để giải thích:

 

1.- Gộp tư duyên: Sắp muốn nhập định, cần dứt phần duyên, y bát chẳng cất, tâm có nhọc nghĩ, vì vậy mà Phật thị hiện để làm mô phạm cho đời sau.

 

2.- Tịnh Thân nghiệp: Kinh A Hàm nói: Phật đi cách đất bốn ngón tay, hoa sen đở chân. Nay thị hiện Tẩy rửa là thuận với đời mà biểu tỏ pháp để làm mô phạm cho đời sau.

 

3.- Chánh nhập định: Phô Lìa Tọa Nhiều do nhờ thân ngay ngắn mà tâm chẳng hôn trầm, dao động.

 

Bản đời Ngụy dịch rằng: như niệm bất động.

Bản đời Đường dịch rằng: Đoạn thân chánh nguyện, trú đồi diện niệm.

Ngài vô Trước nói: Hiển thị duy tịch, ở Năng giác năng thuyết này, mà Đại Thánh hiện tích, ắt có điều biểu tỏ, biểu tỏ Phật bổn giác ở tại ngũ uẩn độ giác ma quân vốn không, gọi là chiến thắng, chiếu tâm thức đủ đức, tức là cấp cô. Câu pháp nuôi thần, gọi là Khất sĩ chúng.

Giác tâm đã phát, vứt bỏ trần lao, sắp muốn Biến quán, bèn nhập thức Tạng, tâm tâm số pháp, thứ đệ tư duy, tức vọng mà chân, đề được pháp hỷ, pháp hỷ vô thể, dung hòa giác tâm, tư duy mượn duyên, mất duyên để hợp chân tính, quán chiếu là tích, bỏ tích phản bổn hoàn nguyên, phản bổn hoàn nguyên, pháp không thì tâm tịch, tâm tịch thì chân thể Bát Nhã trong sáng, muốn thuyết Bát Nhã chánh tông mà thị hiện phát khởi như vậy.

Tư Thánh nói: Thân có hai. Ngụy và chân. Thân Ngũ uẩn là ngụy, thể giả. An mặc để nuôi sống. Pháp Thân là vô ướng, nhờ Bát Nhã để chiếu thành. Quần sanh ôm ngụy vứt chân, Chư Phật nuôi chân bỏ ngụy. Quần sanh đã mê chân mà giữ ngụy, ta lại mượn dấu ngụy mà dẫn chân.

Vì vậy mà mượn duyên khất thực, đem ban pháp hỷ để hóa, cho nên Kinh Niết Bàn nói: Tỳ Kheo các ông tuy hành khất thực nhưng chưa từng xin món ăn pháp Đại Thừa.



Comments

Popular posts from this blog