KIM CANG BÁT NHÃ KINH SỚ LUẬN
TOÁT YẾU
Đời Đường, Tông Mật thuật Tống Tử Tuyền Trì Định
Gương tâm vốn tịnh, hình sắc nguyên
không, mộng Thức Vô Sở, Vật cảnh thành có. Do bởi, Hoặc Nghiệp quen tập, báo
ưng xoay vòng, trần Sa kiếp Ba, chẳng hề dứt tuyệt. Vì vậy Ta Mãn Tịnh giác giả
hiện tướng trong cõi loài người, trước thuyết Nhân duyên sanh diệt, khiến ngộ
khổ tập Diệt Đạo, đã trừ Ngã chấp, chưa đạt pháp không, muốn tận gốc bệnh, mới
thuyết Bát-nhã: Tâm cảnh đều dứt, tức là Chơn tâm. Nhơ sạch đều mất, tất cả
thanh tịnh. Tam Thiên rực rở mười sáu hội, nay sở truyền này, tức phần thứ
chín. Câu kệ thì ẩn mật tóm tắc, chỉ thú thì thâm sâu vi tế. Trí Huệ triệt suốt
cả Ba không, Bố Thí bao hàm cả vạn hạnh. Trú mười tám xứ, mật bày giai sai, đoạn
hai mươi bảy nghi, ngầm thông huyết mạch. Nếu chẳng trước khiển trừ thì lấy gì
khế với Như Như. Tuy thúc dục tu nhưng thủy chung vẫn là Vô Tướng. Do đây Giáo
và Lý đều mật, Hạnh và quả đều Huyền, đến nổi khiến cho miệng tụng lông trâu,
tâm thông sừng Lân. Phối vào Danh tướng thì chấp trước sự, sai trái Tông, hoặc
chỉ nói Nhất Chơn thì vọng nguồn mà lại mê phá, ngoài ra đều là giải thích cạn
cợt, chẳng đáng để bàn vậy! Trân bảo Hằng Sa, thân mệnh ba thời, chỗ dụ chẳng bằng,
há uổng vậy ư! Vả lại, Thầy Thiên Thân, Thầy Vô Trước là những sư Bổ xứ, tôn hậu
học nghi nghi gì, hoặc thêm hoặc bỏ. Vì vậy mà nay chú thích kinh này, chẳng
công dị đoạn, sớ văn luận này, sửa chẳng trong thành”: trước tiên là Toản yếu
danh ý và Đề Mục tên kinh, sau đó là giải thích. Chẳng 12 phiền dự rằng:
Cúi lạy Mâu Ni Đại Giác Tôn
Năng Khai Bát-nhã tam không cú
Phát khởi lưu thông chư Thượng Sĩ
Ngầm giúp văn này khế quần cơ.
Giải thích kinh này, trước khi vào văn,
nói về nghĩa chung, khai ra bốn đoạn:
Nhân duyên giáo khởi.
Tông Thể của kinh.
Phân biệt xứ hội.
Giải thích văn nghĩa.
I. Nhân Duyên Giáo Khởi:
1. Luận chung chư giáo: đó là báo đáp Nhân, báo đáp thỉnh mà hiểu tỏ lý
để độ chúng sanh. Nếu theo Phật bổn ý thì duy chỉ vì một đại sự nhân duyên mà
xuất hiện ở thế gian; Muốn khiến chúng sanh khai Phật tri kiến.
2. Luận riêng kinh
này: Có năm phần:
a) Vì để đối trị hai chấp, ngã chấp và
pháp chấp. Do từ hai chấp này mà khởi Hai chướng; phiền não chướng và Sở tri
chướng. Do từ phiền não chướng, làm chướng ngại tâm, tâm chẳng giải thoát, tạo
nghiệp thọ sanh, luân chuyển ngũ đạo. Do Sở tri chướng, làm chướng ngại Huệ, Huệ
chẳng giải thoát. Chẳng liểu tự tâm, chẳng đạt chư pháp tính tướng thì dù có xuất
tam giới cũng bị trệ ở Nhị Thừa, chẳng đắc thành Phật, cho nên gọi đó là chướng.
Hai chấp nếu trừ thì hai chướng theo đó mà đoạn. Vì để trừ hai chấp mà thuyết
kinh này.
b) Vì để ngăn chặn, đoạn dứt hai mối
nghi chủng tử và Hiện hành: Ngăn chặn những mối nghi chưa khởi chủng tử. Đoạn dứt
những mối nghi hiện khởi hiện hành, tức là ở trong kinh sau khi đã trả lời xong
những điều đã hỏi, liền theo đó từng tiết một mà đoạn nghi, cho đến cuối kinh gồm
hai mươi bảy đoạn.
c) Vì để chuyển và diệt hai nghiệp năng
và nhẹ: chuyển nghiệp nặng thành ra thọ (quả) nhẹ, diệt nghiệp nhẹ thành chẳng
thọ thành chánh giác, trước kia chưa thuyết Bát-nhã, chúng sanh do vì không có
diệc Huệ. Trú tướng mà bố thí, Nhẫn nhục,… đều thành Hữu Lậu, hoặc bị trệ ở Nhị
Thừa, vì vậy mà thuyết Bát-nhã hiển thị rõ Diệu huệ, làm Nhân cho pháp Thân.
Năm độ kia làm Nhân cho ứng Thân. Nếu không có Bát-nhã thì năm Độ kia chẳng phải
là Bà la môn, chẳng gọi là Nhân thành Phật, cho nên cần phải hai nghiêm, phước
và Huệ, mới thànhLưởng túc tôn vậy!
e) Vì để phát minh hai quả; Chơn thân và
ứng thân: Trước khi chưa nghe Ứng Hóa Thân: Trước khi chưa nghe Bát-nhã, chỉ
nói rằng Sắc Tướng là Phật, chẳng biết rằng ứng Hóa Thân chỉ là cái bóng của
Chơn thân, chẳng như thật thấy Chơn Thân Ứng Thân. Vì vậy mà kinh này phát minh
hai quả, khiến biết do từ hai Nhân trước kia mà chứng đắc.
II. Tông Thể Của Kinh
1. Tông: Xét chung những lời Phật dạy là lấy Nhân duyên
làm Tông. Riêng về kinh này thì Thật Tướng Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã, bất nhất
bất nhị, lấy đó làm Tông, dùng cái Trí của tức lý để quán chiếu chư tướng, giống
như Kim Cang đoạn dứt tất cả, cái Lý tức trí ấy là thật tướng, giống như Kim
Cang cứng rắm khó hư hoại, trong vạn hạnh mỗi một hạnh, chẳng thể hôn muội điều
đó, do vậy hợp chúng lại lấy đó làm Tông kinh.
2. Thể: Văn Tự Bát-nhã tức là Thể của kinh. Văn tự thì bao gồm
cả thanh (tiếng), danh, cú, văn. Văn tự tính không, tức là Bát-nhã. Vì không có
một Thể văn tự riêng biệt cho nên đều bao trùm. Lý vô bất tận, hợp lại làm giáo
Thể.
III. Phân Biệt Xứ Hội
1. Về Xứ và Hội: Phật thuyết Đại bộ xứ hội sáu trăm quyển văn.
Thuyết ở bốn xứ (nơi chốn) mười sáu Hội: Xứ thứ nhất là ở vương xá thành, Linh
Thứu Sơn thuyết bảy hội bốn hội thuyết ở giữa núi, ba Hội thuyết ở đỉnh núi. Xứ
thứ hai là thuyết ở vườn Cấp Cô Độc, bảy Hội. Xứ thứ ba là thuyết ở Tha Hóa
Thiên Cung tại ma Ni Bảo Tàng điện, một Hội xứ thứ tư là thuyết ở Vương Xá
Thành, tại vườn Trúc Lâm bên Hồ Bạch Lộ (hồ con cò) một Hội. Kinh này là Xứ thứ
hai, Hội thứ chín, quyển thứ năm trăm bảy mươi bảy.
2. Về truyền dịch: Kinh quyển này, thời đại mà người dịch trước sau
có sáu bản dịch.
Hậu tần, ngài Cưu Ma La Thập.
Hậu Ngụy, ngài Bồ-đề Lưu Chi.
Trần triều, ngài Chơn Đế.
Tùy Triều, ngài Cấp Đa.
Đường Sơ, ngài Huyền Trang.
Đại Châu, Ngài Nghĩa Tịnh.
Sáu người trên đều là Tam tạng. Nay sở
truyền ở đây là của ngài La Thập, Niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ tư, dịch ở tại
chùa Thảo
Đường, trường An. Ở Thiên Trúc, có ngài
Vô trước Bồ-tát, nhập vào Nhật Quang Định, thăng lên cung trời Đâu Suất, gặp Di
Lặc truyền thụ tám mươi hàng kệ, rồi đem kệ này chuyển truyền trao cho ngài
Thiên Thân, ngài Thiên Thân viết ra thành trường hàng gòm ba quyển luận, dựa
theo đoạn nghi chấp để giải thích. Ngài Vô Trước còn viết thêm hai quyển luận,
dựa theo Hiển Hành hạn vị để giải thích. Nay ở đây chia kinh chỉ dựa theo giải
thích nghĩa của ngài Thiên Thân, tức là kiêm luôn cả của ngà Vô trước, thêm vào
đó là tìm cầu ở các bàn luận khác, chọn lọc sưu tập các chú thích, đề tên luận
này là “Toản yếu”.
IV. Giải Thích Văn Nghĩa
1. Giải Thích Tên Kinh: Kim
Cang Bát-nhã Ba-La-Mật Kinh
– Kim Cang: Tiếng phạm là Bạt Chiết La. Cái chày mà các lực sĩ cầm,
là bảo vật đó. Chất cương cứng nhất trong vàng (kim) gọi đó là Kim Cang. Đế
Thích có bảo vật đó, kẻ phuớc mỏng khó mà thấy được nó, cực kỳ kiên cứng, cực kỳ
sắc bén, dụ cho Bát-nhã. Không có vật nào làm hư hoại nó, mà nó lại có thể đập
tan vân vât. Kinh Niết-bàn nói: “Thì như Kim Cang, không có vật nào phá hoại nó
được, mà nó lại có khả năng đập tan tất cả mọi vật”. Ngài Vô Trước nói rằng:
“Kim Cang khó hoại”, lại nói: “Kim Cang năng đoạn”, còn nói: “Kim Cang là tế
lao”. Tế (vi tế) là Nhân của trí. Lao (kiên lao) là chẳng hư hoại. Đều lấy sự
kiên cứng để dụ cho Thể của Bát-nhã, bén nhọn ( lợi) dụ cho Dụng của Bát-nhã. Lại
nữa, quyển ký của ngài Chơn Đế nói về sáu loại Kim Cang:
Màu xanh da trời, tiêu tai ách, dụ cho
Bát-nhã tiêu trừ nghiệp chướng.
Màu vàng: tùy theo nhu cầu của con người,
dụ cho vô lậu công đức.
Màu đỏ: đối trước với mặt trời thì sanh
ra ngọn lửa. Huệ đối trước với Bổn giác thì xuất ra ngọn lửa Vô Sanh trí.
Màu Trắng: làm trong nước đục, Bát-nhã
làm trong sạch những mối nghi trọc đục.
Không màu: làm cho người ta đi đứng
trong không gian. Huệ phá pháp chấp, trú vào Lý không.
Màu ngọc bích (màu xanh lá cây) làm tiêu
tan các độc. Huệ trừ ba độc. Kim Cang còn có thể kiêm thêm những tính chất
khác, chẳng phải là bổn dụ về kiên cứng bén nhọn.
– Bát-nhã: Chánh dịch là Huệ, tức là soi chiếu Ngũ uẩn
không. Huệ tương ưng với Bổn giác. Nếu theo người Học từ cạn đến sâu mà nói thì
nhiếp chung cả ba Huệ; Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ, đó là Bát-nhã.
Ngài Vô trước nói: “Năng Đoạn” là trong
Bát-nhã Ba-la-mật, văn tư tu sở đoạn, cũng giống như Kim Cang đoạn xứ mà đoạn.
Lại nói: “Tế là Nhân của Trí”, nhân trí tức là Huệ. Theo Trí Độ Luận: “Nhân vị
gọi là Bát-nhã, Quả vị gọi là trí” thì Văn, Tư, Tu đều gọi là tế (nhỏ nhiệm),
cái Huệ nhỏ nhiệm là nhân của Phật Trí vậy! Vì Bát-nhã là Năng đoạn cho nên ở tại
Nhân Vị, đến Phật quả thì không còn đoạn nữa, cho nên đổi tên gọi là Trí. Nếu
theo Đại phẩm kinh (kinh Đại Bát-nhã) thì Bátnhã thông cả hai nghĩa Trí và Huệ,
cho nên Trí và Huệ, về mặt danh nghĩa thì có hơi khác nhau nhưng về mặt Thể
tính thì giống nhau.
– Ba-la-mật: Tiếng Hán gọi là Bỉ Ngạn Đáo, đúng thì pải gọi là
Đáo Bỉ Ngạn. Nghĩa là lìa khỏi bờ bên này sinh tử độ qua giữa dòng phiền não, đến
bờ bên kia Niết-bàn. “Niết-bàn”, tiếng Hán gọi là Viên tịch, còn gọi là Diệt Độ.
Tất cả chúng sanh tức tịch diệt tướng, chẳng còn diệt nữa, chỉ vì mê đỏa, vọng
thấy sanh tử gọi là đang ở tại bở bên này, nếu ngộ sanh tử vốn không, nguyên
lai vốn viên tịch thì phải nói là Huệ đến bờ bên kia.
– Kinh: Tiếng phạm là Tu Đa La, dịch nghĩa là khế kinh.
Khế:
là thuyên biểu nghĩa lý, khế hợp với
lòng người, tức là khế lý khế cơ. Kinh: cuốn Phật Địa Luận nói: Xuyên suốt,
thâu tóm, gọi đó là kinh. Vì Phật thánh giáo xuyên suốt những nghĩa lý đã thuyết,
nhiếp trì những chúng sanh được giáo hóa, cho nên gọi là Kinh.
2. Giải Thích Văn Kinh:
Theo thường lệ chia ra ba phần:
Tự phần.
Chánh tông phần.
Lưu thông phần.
I. TỰ PHẦN: Gồm hai phần: chứng tín tự
và phát khởi tự.
1. Chứng Tín Tự
Như thị ngã văn: nhất thời
Phật tại xá vệ quốc kỳ thọ Cấp Cô Độc viên. Dử đại Tỳ kheo chúng thiên nhị bách
ngũ thập nhơn câu.
Giải thích đoạn văn trên, chia ra ba phần:
a. Nhân kiếp lập: Khi Phật sắp diệt độ, A Nan thỉnh hỏi bốn sự việc,
Phật đáp từng sự việc một: sau khi ta diệt độ:
– Theo bốn niệm xứ mà trú.
– Lấy giới làm thầy.
– Mặc tẩn Tỳ kheo tính xấu.
– Đầu tất cả kinh đều nói rằng: “Như Thị
ngã văn, nhất thời Phật tại xứ nào đó, cùng chúng nào đó, bao nhiêu người.
b. Ý kiếp lập: Có ba ý:
– Để đoạn nghi: khi kết tập kinh điển, A
Nan thăng tòa, muốn tuyên Phật pháp, cảm được tự thân mình tướng tốt như Phật,
chúng khởi ba điều nghi: 1. Nghi Phật sống lại thuyết pháp; 2. Nghi Phật ở
phương khác đến; 3. Nghi A Nan thành Phật. Vì vậy mà nói những lời như trên thì
cả ba điều nghi đều đoạn dứt .
– Để dập tắt tranh cải: Nếu chẳng nói là
nghe từ nơi Phật, mà nói là tự mình chế tác ra thì ắt sẽ khởi tranh luận.
– Để khác với tà: chẳng đồng với đầu
kinh của Ngoại Đạo nói rằng “A Ưu…”
c. Giải thích văn
nghĩa: Đủ sáu thành tựu, đó là Tín,
Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng. Sáy duyên chẳng đủ, giáo ắt chẳng hưng, cần phải đủ
sáu, cho nên gọi là “Thành Tựu”.
– Tín: Nếu “Ngã” và “Văn” hợp lại giải thoát thì đó là
từ ngữ chỉ về pháp. Pháp như vậy, tôi nghe từ Phật. Giải thích riêng từ “Như Thị”;
Trí Độ Luận nói rằng: “Tín nghe từ Phật. Giải thích riêng từ “Như Thị”; Trí Độ
Luận nói rằng: “Trí thành tựu”. Biển lớn Phật pháp, tín là năng nhập, Trí là
Năng độ. Người tin thì nói rằng sự việc ấy nhưv ậy, người chẳng tin thì nói rằng
sự việc ấy chẳng như vậy. Lại nữa, Thánh nhơn thuyết pháp chỉ vì để hiển rõ
Như, duy chỉ Như là Thị (là đúng, là phải), cho nên xưng là “Như Thị”. Lại nữa,
Hữu và Vô chẳng hai khác (Hữu vô bất nhị) là như Như phi hữu phi vô là “Thị”.
– Văn: “Ngã” tức là ngũ uẩn giả của A Nan. “Văn”; nghĩa là
nhĩ căn phát Thức, bỏ miệng mà theo chung, cho nên nói là “Ngã Văn” A Nan chẳng
nghe những hai mươi năm trước. Có người nói: Là Như Lai thuyết lại. Có người
nói: A Nan đắc Tam muội thâm sâu mà tổng lảnh nạp. Nếu suy tận bổn gốc mà nói
thì A Nan là Đại quyền Bồ-tát, pháp nào chẳng thông.
– Thời: Sư tư hợp hội, thuyết nghe xong xuôi, cho nên nói là
“Nhất thời” các phương tiện hời gian, dài ngắn khác nhau, nên chỉ nói “Nhất”. Lại
nữa, khi thuyết pháp và lảnh pháp, tâm và cảnh manh, Lý và trí dung hòa, phàm
và Thánh như, Bổn và Thủy hội. Những hai đó đều cùng một thời.
– Chủ: Là “Phật”, gọi cho đủ là Phật Đà, tiếng Hán gọi là
“Giác”. Khởi Tín (Luận) nói: Cái gọi là Giác, nghĩa là tâm thể ly khỏi Niệm, rời
niệm tướng, ngang bằng với Hư không giới, tức là Như Lai bình đẳng pháp Thân, tức
lấy vô niệm gọi đó là Phật. Giác có ba nghĩa: 1. Tự giác, Giác tri tự tâm mình
vốn vô sanh vô diệt; 2. Giác Tha: Giác hết thảy pháp đều là Như; 3. Giác Mãn:
hai giác trên lý viên tròn, gọi đó là mãn, cho nên biết Hữu niệm chẳng gọi là
giác. Khởi Tín luận nói: Tất cả chúng sanh chẳng gọi là Giác. Vì từ vô thủy đến
nay niệm niệm liên tục nối nhau chưa từng rời niệm. Lại nói: Nếu có chúng sanh
năng quán vô niệm thì đó là hướng đến Phật trí.
– Xứ: “Xá vệ”: tiếng Hán gọi là Văn vật, nghĩa là có đầy
đủ dục trần, tài bảo, đa văn, giải thoát nổi tiếng các nước. Ngài Nghĩa Tịnh dịch
là: Danh Xưng Đại thành. “Kỳ Thọ…”, tức là cây do Kỳ Đà Thái tử thí cho, vườn
do Cấp Cô trưởng giả mua. “Kỳ Đà”; tiếng Hán gọi là chiến thắng, là Thái tử của
vua Ba Tư Nặc, khi sinh ra thái tử, vua chiến thắng giặc nước ngoài; vì vậy lấy
đó mà đặt thì. Tiếng phạm gọi là “Tu Đạt”, tiếng Hán gọi là Thiên Thí, “Cấp Cô
Độc” tức là Thiện Thí còn gọi là Thường Hành Thí. Ở Tây quốc gọi chùa (tự) là
tăng Già Lam, tiếng Hán gọi là chúng viên (vườn chúng).
– “Chúng Dữ”: là cùng, là và. “Đại” là Danh cao đức trước “Tỳ
kheo” là tiếng phạm, nó gồm ba nghĩa, vì vậy mà giữ nguyên âm tiếng phạm không
dịch. 1. Bố ma; 2. Khất Sĩ; 3. Tịnh giới. “Chúng”; là lý hòa, sự hòa. “Thiên Nhị
Bách Ngũ Thập”; Phật sơ thành đạo, độ nhóm Kiều Trần NHư năm người, tiếp đó độ
ba anh em Ca Diếp, kiêm luôn đồ đệ tổng cộng một ngàn, tiếp nữa độ Xá-lợi-phất,
Mục Kiền Liên, kể cả đồ chúng mỗi vị một trăm người. Tiếp nữa độ nhóm con trai
của Da Xá Trưởng giả năm mươi người. Không nêu ra con số trên, cho nên bỏ con số
lẻ năm người chúng này thường theo Phật, nêu chỉ kê ra con số, chẳng phải không
có những chúng khác, phần cuối kinh sẽ hiểu rõ mà thôi. “Câu”; là cùng một thời,
cùng một Xứ.
2. Phát khởi Tự:
Khất thực oai nghi, rời khỏi Tà mệnh, đó
là trì giới. Giới nuôi dưỡng Định, Định phát ra Huệ. Nhờ Giới và Định mà phát
khởi Bát-nhã chánh tông. Văn chia ra hai phần:
a. Giới:
Nhĩ thời Thế Tôn thực thời
trước y trì bát nhập xá vệ đại thành khất thực, ư kỳ thành trung. Thứ đệ khất
dĩ, hoàn chí bổn xứ
Chia ra bảy tiết để giải thích:
a) Hóa Chủ: Thành Thật Luận nói: Đủ chín
hiệu trên, được vật khâm trọng, nên gọi là “Thế Tôn”; Trên Trời, nhân gian cùng
nhau tôn trọng.
b) Hóa Thời: “Thực Thời” giờ thìn, đúng
sơ phần ngày, cầu xin dể được, chẳng phiền mình người, xin xong về vườn, vừa
đúng giờ Tị, như 1 thường trai pháp.
c) Hóa Nghi: Mặc áo Tăng Già Lê, ôm bát
bốn Thiên vương hiến cúng.
d) Hóa Xứ: Vườn tại đông nam thành, cách
thành năm sáu dặm, từ ngoài vào trong là “Nhập”, xứ rộng người nhiều là “Đại”.
e) Hóa Sự: Phật muốn hiển công đức Đầu
Đà, để những người nhác nhớm cảm thấy hổ thẹn, dùng phương pháp đồng sự để thâu
nhiếp họ, vì vậy mà tự mình khất thực. Anh Lạc Nữ Kinh nói:Thân của Hóa Phật giống
như toàn khối Kim Cang, không có hai tạng snah và Thục. Nay những người được khất
xin là Lợi ích cho họ, cho nên kinh Tịnh Danh nói: Vì chẳng ăn,cho nên phải nhận
thức ăn.
f) Hóa Đẳng:
– Do trong chứng lý bình đẳng, ngoài chẳng
thấy tướng nghèo giàu.
– Vì tâm đã lìa khỏi tham và mạn, vì từ
bi nên chẳng thiên lệch làm lợi cho riêng ai.
– Bày tỏ oai Đức: chẳng sợ những nhà
nuôi voi dử, quán rượu, nhà chứa.
– Dập tắt những hiềm nghi của phàm phù.
– Phá sự phân biệt của Nhị Thừa.
g) Hóa Chúng: Nghĩa của chữ “Dĩ” (Xong,
rồi) thuộc văn câu dưới liền với câu trên. Nghĩa của chữ “Phạm Thực” thuộc câu
trên, văn liền với câu dưới. Nếu mở rộng câu văn để cho câu văn đầy đủ thì nên
nói: “Thứ đệ khất thực xong, về đến bổn xứ ăn cơm, ăn cơm xong. Cất y bát”. Phật
nếu chẳng ăn thì phước của người cho chẳng đầy. Bảo Vân Kinh nói: Tùy chỗ xin
được, chia làm bốn phần:
Nghĩa để cho người đồng phạm hạnh.
Nghĩ để cho người nghèo, người bệnh, người
ăn xin.
Những chúng sanh ở dưới nước, ở trên đất
liền.
Tự mình ăn. Kinh Thập Nhị Đầu Đà chỉ nói
ba phần, bỏ phần phạm hạnh.
b. Định:
Phạm thực ngật, thu bát, tẩy
túc dĩ phô tòa nhi tọa.
Chia ra ba tiết để giải thích:
1/ Gộp tư duyên: Sắp muốn nhập định, cần
dứt phần duyên, y bát chẳng cất, tâm có nhọc nghĩ, vì vậy mà Phật thị hiện để
làm mô phạm cho đời sau.
2/ Tịnh Thân nghiệp: Kinh A Hàm nói: Phật
đi cách đất bốn ngón tay, hoa sen đở chân. Nay thị hiện “Tẩy” (rửa) là thuận với
đời mà biểu tỏ pháp để làm mô phạm cho đời sau.
3/ Chánh nhập Định: “Phô Lìa Tọa Nhiều”
do nhờ thân ngay ngắn mà tâm chẳng hôn trầm, dao động. Bản đời Ngụy dịch rằng:
“Như niệm bất động”, bản đời Đường dịch rằng: “Đoạn thân chánh nguyện, trú đồi
diện niệm”. Ngài Vô Trước nói: “Hiển thị duy tịch”, ở Năng giác năng thuyết
này, mà Đại Thánh hiện tích, ắt có điều biểu tỏ, biểu tỏ Phật bổn giác ở tại
Ngũ uẩn Độ giác ma quân vốn không, gọi là “chiến thắng”, chiếu tâm thức đủ đức,
tức là “cấp cô”. Câu pháp nuôi thần, gọi là “Khất sĩ chúng”. Giác tâm đã phát,
vứt bỏ trần lao, sắp muốn Biến quán, bèn nhập Thức Tạng, tâm tâm số pháp, thứ đệ
tư duy, tức vọng mà Chơn, đề được pháp hỷ, pháp hỷ vô thể, dung hòa giác tâm,
tư duy mượn duyên, mất duyên để hợp Chơn Tính, quán chiếu là tích, bỏ tích phản
bổn hoàn nguyên, phản bổn hoàn nguyên, pháp không thì tâm tịch, tâm tịch thì
Chơn thể Bát-nhã trong sáng, muốn thuyết Bát-nhã chánh tông mà thị hiện phát khởi
như vậy. Tư Thánh nói: Thân có hai; Ngụy và Chơn. Thân Ngũ uẩn là ngụy, thể giả.
An mặc để nuôi sống. Pháp thân là vô ướng, nhờ Bát-nhã để chiếu thành. Quần
sanh ôm ngụy vứt Chơn, chư Phật nuôi Chơn bỏ ngụy. Quần sanh đã mê Chơn mà giữ
ngụy, ta lại mượn dấu ngụy mà dẫn Chơn. Vì vậy mà mượn duyên khất thực, đem ban
pháp hỷ để hóa, cho nên kinh Niết-bàn nói: “Tỳ kheo các ông tuy hành khất thực
nhưng chưa từng xin món ăn pháp Đại thừa”.
2. CHÁNH TÔNG PHẦN
Chia ra hai phần:
Dựa theo bảy loại nghĩa cú của Ngài Vô
Trước để giải thích.
Dựa theo phần vấn đáp đoạn nghi của ngài
Thiên Thân để chia đoạn và giải thích.
1. Bảy nghĩa cú trong phần một
là:
Nghĩa cú thứ nhất: Chủng Tính bất đoạn:
nghĩa là hộ niệm phó chúc.
Nghĩa cú thứ hai: Phát khởi hành tướng:
Nghĩa là do từ thỉnh xin, khen ngợi, chấp thuận.
Nghĩa cú thứ ba: Hành sở trú xứ: nghĩa
là mười tám trú, từ Phật chánh thuyết suốt cho đến cuối kinh, đó là sở trú xứ của
Vô Tường hành.
Nghĩa cú thứ tư: Đối trị nghĩa là mỗi một
chỗ trú đều có đủ cả hai loại đối trị, tà hành cộng, kiến chánh hành.
Nghĩa cú thứ năm: Bất thật do từ đối trị
mà lìa hai biên tăng và giảm, chẳng mất Trung Đạo.
Nghĩa cú thứ sáu: Địa vị: nghĩa là, do
chẳng đánh mất Trung Đạo mà thành Hiền Thánh vị; Tín Hành Đạo, Tịnh tâm Địa,
Như Lai Địa.
Nghĩa cú thứ bảy: Lập Danh: Do từ sáu
nghĩa cú trên mà trí Huệ
Kiên lợi, vị và Địa rộng hẹp, nên gọi là
Kim Cang.
Bốn nghĩa cú sau chỉ nói theo mười tám
chỗ trú trong nghĩa cú thứ ba, không có văn kinh riêng biệt.
Mười tám trú xứ là:
1. Phát tâm trú: Kinh nói: “Ưng Như Thị
hàng phục kỳ tâm, sở hữu nhất thiết…”
2. Ba-la-mật tương ưng hành Trú: “Bất
trú sắc bố thí…”
3. Muốn đắc sắc thân trú: “Khả dĩ thân
tướng…”
4. Muốn đắc pháp thân trú: Pháp thân có
hai: 1. Pháp Thân thuộc ngôn thuyết, “Phá hữu chúng sanh…” nhân ở lời nói mà hiểu
rõ lý; 2. Pháp thân thuộc chứng đắc.
5. Lại có hai thứ: a. Trí Tướng: “Như
Lai đắc A Nậu…”; b. Phước tướng: “Nhược nhơn Mãn tam thiên…” kể từ trú này đến
trú thứ mười sáu đều như thứ tự đối trị mười hai loại chướng, ý nói muốn cầu sắc
Thân và pháp thân thì cần phải lìa khỏi những chướng ấy. Chướng đã hết mới nhập
vào trú thứ mười bảy Chứng Đạo trú. Nay đang đối trị là chướng thứ nhất, Mạn
chướng.
6. Bất ly Phật thế thời Trú: “Tích tại
Nhiên đăng…”; lìa khỏi chướng thứ hai, Thiểu Văn Chướng. Chẳng rời Phật thế thì
có đủ Đa Văn.
7. Nguyện Tịnh Phật Thổ Trú: “Bồ-tát
trong nghiêm Phật thổ bất?…” lìa khỏi chướng vì tiểu phan duyên tác niệm tu đạo,
vì thế với pháp giới.
8. Thành thục chúng sanh trú: “Nhơn thân
như Tu Di…”, lìa khỏi chướng xả chúng sanh. Nếu thấy đại hay Tiểu thì chẳng thể
cứu vớt vật.
9. Viễn ly tùy thuận ngoại luận trú loạn
trú: “Như Hằng Hà Sa trung sở hữu sa….”, lìa khỏi chướng vì vui thích với sách
luận cua ngoại đạo làm tán loạn. hằng sa trên bảo bố thí chẳng bằng trì kinh.
Vì sao người ngoại học chẳng tu chánh pháp?
10. Sắc và chúng sanh trong Đoàn Thủ
Thân, quán pha tướng ưng hành Trú: từ “Tam Thiên Thế giới sở hữu vi trần…” lìa
khỏi chướng do vì phá những hình bóng trong tướng, không có thiện xảo phương tiện.
Đã lìa khỏi tán loạn, tương ưng với Định. Do vì vi tế mà chẳng nhớ đến hai loại
phương tiện, phá thô đạt vi tế, diệt vi tế đạt đến không, tức trừ tưởng tướng của
hình bóng.
11. Cúng dường hầu hạ Như Lai trú: “Khả
dĩ tam thập tam tướng kiến Bồ-tát bất…”, lìa khỏi chướng phước tư lương chẳng đủ.
Chẳng dùng tướng thấy, thường thấy pháp thân, gọi đó là hầu hạ phước vô biên vậy.
12. Lìa xa lợi dưỡng và mệt mỏi nhiệt
não mà chẳng khởi tinh tiến và thối thất trú: “hằng Hà sa thân mệnh bố thí…” là
lìa chướng lạc vị giải đãi lợi dưỡng. Hằng sa mệnh thí còn kém hơn thọ trì, há
lại vì một thân xác mà đắm say dính mắc vào lợi dưỡng, thân mệt mỏi thì tâm phiền
nóng mà giải đải sao?
13. Nhẫn khổ trú: “Nhẫn Ba-la-mật phẩu
triệt thân…” lì chướng chẳng thể chịu khổ nổi, không có những tướng ngã… thì nhẫn
chịu nổi nhiều thứ khổ.
14. Ly Tịch tịnh vị trú: “Đương
lai chi thế, nhược hữu nhơn năng ư thử kinh thọ trì đọc tụng…” lìa chướng vì
trí tư lương chẳng đủ. Ngày ba thời Xả thân nhiều như Số cát của những sông Hằng
cũng chẳng bằng tin kinh, sao lại chỉ chuyên thiền định chìm đắm vào mùi vị tịch
tỉnh, thiếu về trí huệ mà chẳng trì chẳng thuyết.
15. Vào khi chứng đạo, viễn ly hỷ động
trú: “Vân hà trú, Hàng…” lìa chướng thứ mười một chướng chẳng tự mình nhiếp: Ta
có thể trú, hàng tâm thì sinh ra vui mừng lay động, lay động thì chẳng thể tự
nhiếp.
16. Cần Phật giáo thọ trú: “Ư Nhiên Đăng
Phật Sở Hữu pháp đắc Bồ-đề bất…” lìa chướng thứ mười hai chướng không có giáo
thọ. Muốn nhập Sơ Địa thì cần phải Phật giáo thọ (dạy truyền trao). Do vậy nếu
dựa theo gặp Phật đắc vô sở đắc mà chứng đạo vậy.
17. Chứng Đạo trú: “Nhơn thân trưởng Đại…”
nhiếp chủng Tính Trí, chứng biến hành Chơn Như, thành pháp thân, báo thân cho
nên là “Trưởng đại”.
18. Thượng cầu Phật Địa Trú: trong trú
này lại có sáu loại cụ túc:
a) Quốc Thổ Tịnh Cụ Túc, “Ngũ đương
trang nghiêm Phật thổ…” đây là dạy cho những Đại Bồ-tát nhị đại trở lên.
b) Vô Thượng kiến Trí Tịnh cụ túc; “Hữu
nhục nhãn bất?…” từ đây về sau đều duy chỉ Phật quả, cho nên nói là “vô thượng”.
“Vô thượng” này thông cả bốn cụ túc sau.
c) Phước tự tại cụ túc; “Nhược NHơn năm
Tam Thiên giới thất bảo…”.
d) Thân cụ túc: “Phật khả dĩ cụ túc sắc
thân…”
e) Ngữ cụ túc; “Như vật vị Như Lai thuyết
pháp …”.
f) Tâm cụ túc: Phật đắc A Nậu Bồ-đề Vi
vô sở đắc Da?… (cho đến)… ưng Như Thị quán”.
Lại nữa, mười tám trú trên tóm lược lại
thành tám loại, cũng được đầy đủ:
Nhiếp trú xứ, phối với trú thứ nhất.
Ba-la-mật tịnh trú xứ. Phối với trú thứ
hai.
Dục trú Xứ: bao gồm trú thứ ba và thứ
tư.
Ly chướng Ngại trú Xứ: tức là mười hai
chướng trên từ trú thứ năm đến trú thứ mười sáu.
Tịnh tâm trú xứ: phối với trú mười bảy.
Cứu cánh trú xứ: phối với trú mười tám.
Quảng Đại trú xứ: Thâu tóm cả trú mười
tám.
Thậm thâm trú xứ: Thâu tóm cả trú mười
tám.
Trong mỗi một trú, đều thâm sâu, đều quảng
rộng.
Văn của mười tám trú phối với vị Địa là:
Trú thứ nhất là Thập Trú Vị. Trú thứ hai
là sáu vị trước trong Thập hạnh vị. Trú thứ ba là hạnh vị thứ bảy trong thập Hạnh
vị trước trong Thập hạnh vị. Trú thứ ba là hạnh vị thứ bảy trong thập Hạnh vị.
Trú thứ tư là ba hạnh vị sau của Thập Hạnh vị. Từ trú thứ năm đến trú thứ mười
bốn, thứ tự phối với từng Hồi Hướng trong Thập Hồi Hướng. Trú thứ mười lăm là
Noãn vị và Đảnh vị. Trú thứ mười sáu là nHẫn Thế Đệ Nhất. Trú thứ mười bảy là
Sơ Địa. Trú thứ mười tám là từ Nhị Địa cho đến Phật Địa.
2. Y theo phần vấn đáp đoạn
Nghi của ngài Thiên Thân để phân chia và giải thích. Chia ra thành bốn đoạn:
1. Thiện Hiện thân thỉnh: gồm hai phần:
a. Chỉnh Nghi Tán Phật:
Thời trưởng lão Tu Bồ-đề tại
đại chúng trung, tức tòng tòa khởi, thiên đản hửu kiên, hữu tất trước địa, hợp
chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn. Hy hữu thế tôn, như lai thiện hộ niệm chư
Bồ-tát. Thiện phó chúc Chư Bồ-tát.
“Trưởng Lão”: Đức cao tuổi lớn. Đường dịch
là cụ thọ, thọ tức là Mệnh. Ngụy dịch là Huệ Mệnh, lấy Huệ làm Mệnh.
“Tu Bồ-đề”: Có ba nghĩa dịch: đó là Thiện
Cát, Thiện Hiện, Không sinh. Khi sinh ra phòng rổng không, hiện điềm thiện về
giải không. Thầy tướng đoán rằng, duy thiện, duy cát.
“Tòng Tòa Khởi…”: đều là những tướng về
chỉnh đốn oai nghi, tu kính.
“Hy Hữu”: (hiếm có) vì trên không có.
“Như Lai”: là từ Như mà đến.
“Tiện Hộ Niệm”: Luận nói; Thiện hộ niệm
là dựa theo những Bồtát căn thục mà nói, nghĩa là cho Lực Trí Huệ để thành tựu
Phật pháp, cho lực giáo hóa để nhiếp thọ chúng sanh.
“Tiên Phó Chúc”; Là nói theo những Bồ-tát
căn chưa thành thục, e họ thối mất, phó trao cho người Trí. “Phó” là đem nhỏ
giao cho Lớn, “Chúc” là dặn dò lớn giáo hóa nhỏ.
“Bồ-đề Tát Đỏa”: Tiếng Hán gọi là giác Hữu
tình. Có ba giải thích:
Dựa theo cảnh: là sở cầu, sở độ.
Dựa theo tâm là có trí thuộc giác ngộ,
Thức của những tình lự khác.
Dựa theo Năng Sở. Cả ba đều Như, theo thứ
tự phối với Giác và Hữu Tình.
b. Chánh Phát Vân Đoạn:
Thế tôn! Thiện nam tử, thiện
nữ nhơn, phát A-nậu-đa-la-tammiệu-tam-bồ-đề tâm, ưng vân hà trú? Vân hà hàng phục
kỳ tâm?
1. Giải thích đương cơ: Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Quân mát Bồ-đề tâm, tu các nghiệp Thiện, bị ma nhiếp trì.” A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ-đề: Tiếng Hán là Vô Thượng Chánh Biến Chánh Giác. Nghĩa là
Chánh Trí Biến Trí giác tri Chơn và tục, chẳng thiên lệnh chẳng tà vạy.
2. Giải thích Chánh Vấn: ngụy dịch là:
“Phải làm sao trú, làm sao tu hành, làm sao hàng phục kỳ tâm”. Ý nói nếu người
phát Bồ-đề Tâm rồi, trú cảnh giới gì? Tu hạnh nghiệp gì? Vọng tâm nếu khởi thì
làm sao hàng phục? Cho nên Phật bảo an trú bốn tâm, tu Lụa độ hạnh, trong đó
hàng tâm chẳng khiến trước tướng. Tần dịch lượt bớt phần tu hành, ý nói rằng
trú Đạo hàng tâm tức là tu hành, nghĩa là Bốn âm và Sáu độ đều gọi là Trú, Tu,
Hàng phục. Ngài Vô Trước nói rằng: trú, nghĩa là Dục nguyện (mong muốn). Tu
Hành, nghĩa là tương ưng đẳng trì. Hàng phục; nghĩa là tâm kia nếu tán thì chế
nó khiến trở về trú. Lại nữa, trong mười tám trú, mỗi một Trú đều lấy trú, tu,
hàng phục để giải thích, mới biết tuy có ba mà hành thì chỉ là cùng một.
2. Như Lai Tán Hứa
Phật ngôn: thiện tai! Thiện
tai! Tu-bồ-đề, như như sở thuyết; Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát. Như kim đế
thính, đương vi nhũ thuyết; thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề-tâm,
ưng như thị trú, như thị hàng phục kỳ tâm.
Chia ra ba phần:
1/ Ấm tán sở tán:
Lặp lại hai lần “Thiện Tai”, cực kỳ khen
ngợi. Hộ niệm và phó chúc có thể khiến cho hạt giống Phật chẳng bị đoạn dứt, là
việc đương nhiên, cho nên ấn chứng lời khen ngợi của Tu Bồ-đề; “như Như Sở Thuyết”.
2/ Bảo nghe hứa thuyết:
Không có dùng tâm hành sinh diệt mà nghe
pháp Thật tướng. Kệ của cuốn Trí luận nói rằng: “Người nghe nhìn sửng như khát
nước, một lòng nhập vào trong nghĩa lời, háo hức nghe pháp lòng buồn vui, những
người như vậy đáng để thuyết”.
3/ Khuyên nghe sắp thuyết:
Ta sẽ vì ông, như vậy như vậy, nhỏ nhẹ
mà nói.
3. Thiện hiện lắng nghe.
Duy nhiên! Thế tôn! Nguyện lạc
dục văn.
“Duy” là từ thuận tòng, thuận theo, vâng
theo. Lễ pháp thì Dạ vâng! Thô lổ thì à ừ! Thập Địa Kinh nói: như khát thì nghĩ
đến nước lạnh như đói thì nghĩ đến món ăn ngon, như bệnh thì nghĩ đến thuốc
hay, như đám ong nhờ mật, chúng con cũng vậy, nguyện nghe pháp cam lồ.
4. Như Lai Chánh Thuyết. Chia ra hai phần: a.
Chánh đáp sở vấn: chia ra hai phần.
– Nêu chung, tách riêng để điệp vấn:
Phật cáo Tu Bồ-đề: chư Bồ-tát
ma ha tát ưng như thị hành phục kỳ tâm
Đây là hàng phục làm chung, lấy trú và
Tu làm riêng, nghĩa là trong Trú và tu đều có Hàng phục. Vì ý kinh ở tại đây
nên chỉ nêu lên hàng phục, có người chia. Đây là nêu phần sau mà nhiếp phần đầu,
mới khiến cho văn kinh rất chẳng ổn định suông sẽ, lý và lệ điên đảo lộn ngược.
Xưa nay ngôn giáo chỉ có lấy phần đầu mà nhiếp phần sau, chưa nghe lấy phần sau
mà nhiếp phần đầu, huống nữa xem kỷ văn kinh không có chỗ nào lời riêng về vấn
đề hàng phục mới biết Hàng phục nằm ở trong phần Trú và Tu, đều bảo ly tướng là
trả lời câu hỏi về hàng phục, chẳng riêng đáp. Tông của kinh này ở Ly Tướng, Ly
tướng chính là hàng tâm, vốn ý muốn nói Hàng tâm cần phải dựa theo trú và Tu mà
hiển, vì Trú, Tu, Hàng phục vốn chẳng lìa nhau. Mười tám Trú của ngài Vô Trước
đều có Trú, tu, hàng tâm.
– Theo riêng hiển chung để trả lời câu hỏi:
có hai phần;+ Đáp câu hỏi về an trú, Hàng tâm: có bốn phần:
– Quảng Đại tâm.
Sở hữu nhất thiết chúng sanh
chi loại; nhược noản sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh,
nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng
phi vô tưởng.
Có hai cú: Cú thứ nhất là nêu lên Tam giới
phổ độ. Cú thứ hai “Nhược Noản..” liệt kê ra ba: 1) Thọ Sanh sai biệt: Loài Trời
và Loài Địa Ngục thì Hóa sanh. Loài ma quỷ thì thông cả thai sanh và Hóa sanh.
Loài người và động vật đều thông cả bốn sanh, những loài vi tế khác ở trong nước,
trên đất, trong đất, trong không,.. chẳng thể phân chia phẩm loại cho đầy đủ được.
Noản sanh là thấp kém mà lại kê ra đầu tiên, có hai giải thích: a. Vì nếu theo
cảnh thì cái đủ duyên nhiều làm đầu; b. Nếu dựa theo tâm thì từ gốc đến ngọn
làm thứ tự; 2) Y chỉ sai biệt: Hữu sắc là Tứ Thiền, Vô Sắc là Tứ không; 3) Cảnh
giới Sai biệt: Công Đức Thí nói rằng: Hữu tưởng thì không xứ và Thúc xứ. Vô tưởng
thì vô sở hữu xứ. Phi tưởng thì Hữu Đảnh.
– Đệ Nhất Tâm
Ngã giai linh nhập vô dư Niết-bàn
nhi diệt độ chi.
Tức là Vô trú Xứ Niết-bàn, bất cộng Nhị
Thừa, cho nên nói là Đệ nhất. Ngài Vô trước nói: Vì sao lại nguyện (mong) nghĩa
bất khả đắc này? Vì Sanh sở nhiếp. Lại nói: Noản, Thấp, Vô tưởng, Hữu Đảnh thì
bất năng, làm sao phổ nhập? Có ba nhân duyên: 1. Vì Nạn xứ sanh thì phải đợi thời;
2. Chẳng phải là nạn xứ sanh thì; những hàng chưa thành thục thì thành thục họ;
3. Những người đã thành thục thì giải thoát.
– Thường Tâm
Như thị diệt độ vô lượng vô
số vô biên chúng sanh thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả.
1). Là vì Tính không; 2) Là vì đồng thể.
Luận nói: Tự thân diệt độ, không khác chúng sanh; 3) Là vì bổn tịch; 4) Vì vô
niệm; 5) Pháp.
– Bất Đảo Tâm.
Hà dĩ cố, Tu Bồ-đề! Nhược Bồ-tát
hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ-tát.
Luận nói: Lìa xa những tướng y chỉ vào
thân kiến, chúng sanh,… Ngài Vô Trước: vì đã đoạn dứt Ngã kiến, đắc tự hành
bình đẳng tướng. Tín giả tự và tha là bình đẳng, hiển thị nhiếp trong Hàng phục
tâm, khi tán, chúng sanh tưởng cũng chẳng chuyển, như nhĩ Viêm kia.
b. Đáp câu hỏi về Tu hành,
hàng tâm. Có phần:
– Nêu Chung
Phục thứ, Tu Bồ-đề! Bồ-tát ư
pháp ưng vô sở trú hành ư bố thí.
“Ư Pháp”; là nêu chung các pháp. Từ “Ưng
Vô…” là chánh tỉ về tu hành.
Hỏi: Bồ-tát vạn hạnh, sao chỉ nói một hạnh?
Đáp: Vạn hạnh chẳng ngoài lục độ. Lục độ
gọi chung là Bố Thí. Cho nên kệ nói: “Đoàn nghĩa nhiếp ư lục, tư sinh vô úy
pháp, thử trung Nhất nhị tam, thị danh tu hành trú” (Bố thí nhiếp cả sáu, nuôi
dưỡng vô úy pháp, trong ấy một hai ba, goi là Tu hành trú). Ngài Vô trước nói:
Nếu không có tinh tiến thì mệt mỏi, chẳng thể thuyết pháp, nếu không có thiền định
thì tham được Tín kính, lợi dưỡng, mà nhiễm tâm thuyết pháp. Nếu không có Trí
Huệ thì sẽ thuyết pháp, một cách điên đảo.
– Giải Thích Riêng
Sở vi bất trú sắc bố thí, bất
trú thanh hương vị xúc pháp bố thí
Bổn luận chỉ chỉ ra ba sự: đó là Tự
Thân, Báo ân, quả báo. Kệ nói: “Tự thân và báo ân, quả báo này chẳng dính hộ tồn
mình chẳng thí phòng cầu ở việc khác”.
– Tổng kết:
Tu Bồ-đề! Bồ-tát ưng như thị
bố thí, bất trú ư tướng.
Trước chỉ chỉ ra ba sự, nay thì Tâm và Cảnh,
không và Hữu, vi tế rủ sạch. Kệ nói: “Viễn ly thủ tướng tâm”. Luận nói: “Chẳng
thấy vật cho, chẳng thấy kẻ nhận, chẳng thấy kẻ cho”. Ngài Vô Trước nói: “ Bất
trú tướng tưởng”. Có người cho rằng đoạn văn kết này là trả lời câu hỏi về Hàng
phục. Sai vậy! Trước tiên là nêu ra, tiếp đó là giải thích, tiếp nữa là kết luận,
đều nói Vô trú, đều là nghĩa của Hàng phục nằm trong tu hành, sao lại bỗng
nhiên cho rằng Văn kết là trả lời câu hỏi riêng khác?
– Hiển Ích
Hà dĩ cố? nhược Bồ-tát bất
trú tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng, Tu Bồ-đề! ư ý vân hà? Đông
phương hư không khả tư lương bất? bất dả! Thế Tôn! Tu Bồ-đề! Nam Tây Bắc
Phương, tứ duy Thượng Hạ hư không khả tư lượng bất? bất dả! Thế tôn! Tu Bồ-đề!
Bồ-tát vô trú tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị, bất khả tư lượng.
Cú đầu là trưng hỏi. Luận nói: nếu lìa
khỏi những tưởng tướng thí,.. thành tựu được phước đức bố thí? Từ “Nhược Bồ-tát…”
là giải thích. Ở trong này có ba phần; phần đầu là pháp thuyết. Vì nghi là
không có phước, cho nên dùng “bất khả tư” để đoạn dứt mối nghi đó.
“Đông phương… là Dụ thuyết: dể hiểu có
thể biết rồi vậy. “Bồ-tát vô trú tướng…” là pháp hợp. Hư không là vô, nói rằng
“giống như Hư không” có ba nhân duyên: 1. Vì Hư không khắp tất cả mọi xứ. Nghĩa
là trong trú và bất trú tướng thì phước sinh ra; 2. Là vì Hư không rộng lớn thù
thắng; 3. Vô tận, cứu cánh bất tận.
– Kết Khuyên
Tu Bồ-đề! Bồ-tát đản ưng như
sở giáo trú.
LẦN LƯỢT ĐOẠN NGHI
Luận nói: Từ đây về sau là thị hiện đoạn
dứt những tâm sanh nghi.
Trong đó, văn chia ra hai mươi bảy đoạn.
1. Đoạn mối nghi cầu Phật hành thí trú
tướng:
Nghi rằng: Vì để cầu Phật quả mà hành bố
thí, tức là trú vào tướng “cầu Phật”, thì sao lại là vô trú? Lại nữa, nếu bất
trú vào tương1 “cầu Phật”, thì sao lại là vô trú? Lại nữa, nếu bất trú tướng
làm Nhân thì làm sao cảm được quả thuộc sắc tướng, vì nhân và quả chẳng cùng loại?
Đoạn dứt mối nghi này, văn có bốn phần:
1. Nêu nguyên nhân khởi nghi
để hỏi:
Tu Bồ-đề! Ư ý Vân hà, khả dĩ
thân tướng kiến như lai bất?
Vốn chỉ Nhân vì cho tướng là Phật nên mới
khởi mối nghi bất trú tướng như trên. Phật nêu ra nguyên nhân khởi nghi, hỏi và
đáp, muốn khiến đoạn trừ.
2. Tướng đắc để đáp:
Bất dả! Thế Tôn! bất khả dĩ
thân tướng đắc kiến Như Lai.
Vì ngăn ngừa người Nghi, muốn dùng tướng
để cầu, khiến cho thấy được Như Lai thân. Cho nên đáp rằng: “Chẳng thể dùng tướng
để thấy được”. Luận nói: “Vì để phòng ngừa Tướng kia thành tựu đắc thân Như
Lai”.
3. Giải thích Thế khác với Hữu
vi.
Hà dĩ cố. Như Lai sở thuyết
thân tướng tức phi thân tướng.
Tướng là Hữu vi, sinh, trụ, dị, diệt. Phật
thể thì khác với thứ đó, cho nên phi Thân tướng( chẳng phải là thân tướng). Kệ
nói: “Tam tướng dị thể cố” (vì ba tướng khác với Thể); Phật thể khác với ba tướng
hữu vi. Hai tướng Trụ và Dị cùng là hiện tại, cho nên hợp lại thật một tướng. Nếu
chia nhỏ ra thì thật là bốn tướng. Do vậy Duy Thức nói: Sinh là biểu thị cho
pháp này trước kia chẳng có. Diệt là biểu thị cho pháp này sẽ là không có. Dị
là biểu thị pháp này chẳng đứng yên. Trụ là biểu thị pháp này tạm thời có tác dụng.
4. Ấn Phật thân vô tướng.
Phật cáo Tu Bồ-đề phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.
Chẳng những Phật thân vô tướng, nhưng lại
là chỗ y chánh cho tất cả phàm và Thánh. Tướng Hữu vi đều là hư vọng, vì do từ
vọng niệm mà biến hiện ra. Vọng niệm vốn không thì chỗ biến hiện làm sao thật!
Cho nên khởi Tín nói rằng: “Tất cả cánh giới chỉ nương vọng niệm mà có sai biệt,
nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. “Nhược kiến chư tướng…”
là ngăn chặn lìa sắc mà quán không. Vì e ngại rằng người ta nghe nói tướng là
Hư vọng mà riêng cầu Phật thân vô tướng, cho nên nói rằng “tướng tức phi tướng,
tức là Như Lai”, chẳng chỉ Phật hóa thân tướng là Như Lai mà tướng của tất cả
tướng mà mình đã thấy đều là vô tướng tức là Như Lai. Vì vậy mà khởi tín luận
nói rằng: Cái gọi là nghĩa giác; nghĩa là tâm thể ly niệm, ly niệm tướng là đẳng
với Hư không giới, tức là Như Lai bình đẳng pháp thân. Triệu nói: “Hành hợp Giải
thông tức là thấy Phật”. Kệ nói: “Ly kia là Như Lai”; ly ba tướng kia là pháp
thân Như Lai. Ngài Vô trước thì chỉ ly Biến kế với Sắc thân, chẳng chấp sắc tướng
tức là Chơn sắc thân, cho nên Luận kia nói rằng: Đây là hiển thị Như Lai sắc
thân, lại nủa, đây là trú xứ thứ ba trú xứ muốn đắc sắc thân.
2. Đoạn mối nghi không tin Nhân và Quả đều
thâm sâu
Luận nói: Vô trú hành thí Nhân thâm sâu,
Vô tướng thấy Phật quả thâm sâu. Vị lai Ác thế ắt sẽ chẳng sanh ra niềm tin uống
thuyết vô ích.
Phần văn đoạn dứt mối nghi này có bốn phần:
1. Dựa theo không tin để
trình mối nghi.
Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế
Tôn! phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương có, sinh thật tín bất?
Bản đời Ngụy viết rằng: “Có chúng sanh
nào ở đời vị lai…” nay bản dịch này lược bớt câu đó. Ảnh ở tại “sau năm trăm
năm). “cú”: là thuyên sai biệt. “chương”: là giải cú. “Thật trí”; Đại phẩm nói:
“Chẳng tin tất cả pháp là tin Bát-nhã”.
2. Trách lời nói nghi ngờ để
hiển rõ niềm tin.
Phật cáo Tu Bồ-đề mạc tác thị
thuyết, Như Lai diệt hậu hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử
chương cú năng sinh tín tâm, dĩ thứ vi thật.
(Phật bảo Tu Bồ-đề: Đừng nói như thế!
Sau khi Như Lai diệt, năm trăm năm sau, có người trì giới, tu phước sẽ sinh niềm
tin về chương cú này, cho đây là Thật).
“Hậu Ngũ Bách Thế”; kinh Đại Tập nói:
Năm trăm năm thứ nhất là giải thoát kiên cố. Năm trăm năm thứ hai là thiền định
kiên cố. Thứ ba là Đa văn, thứ tư là chùa tháp, thứ năm là Đấu tránh, đều ví
như câu thứ nhất câu thứ hai. Vốn nghi đời ác thế người ta không tin, cho nên
nêu ra Ác thế để đoạn mối nghi.
“Trí giới, tu phước”; là giới và định.
“Dĩ thử vi thật”; là chánh giải không có
điên đảo.
Ngài Vô trước nói: ba Học; tăng Thuợng
giới Học, tăng thượng Định học,.. là hiển thị rõ công đức tu hành thiểu dục,..
Giới thì ra khỏi ba Ác Đạo, Định thì ra khỏi lục dục. Huệ thì xuất khỏi tam giới.
3. Nguyên do tin được. Chia ra hai phần:
a) Phụng sự thiện hữu, tích tập nhân
tín.
Đương tri thị nhơn bất ư nhất
Phật nhị Phật tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện cân. dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật
sở chủng chư thiện căn, văn thị chương có nãi chí nhất niệm sinh tịnh tín giả.
Ngài Vô Trước nói: Hiển thị tích tập
Nhân ở nhiều chỗ Phật. Ý nói rằng làm đời phụng sự bạn lành thì Duyên sẽ tốt đẹp.
“Chủng chư thiện căn”; Ý nói rằng lâu ngày
chế phục ba độc thì Nhân tốt đẹp.
b) Được bạn lành nhiếp thu, thành tựu đức
tin: chia ra hai phần:- Nhiếp thọ đắc phước, hiển phước đức Môn:
Tu Bồ-đề! Như lai tất tri tất
kiến thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức.
Ngài Vô Trước nói: nghĩa là ở trong tất
cả mọi hành vi đi đứng, việc làm đều biết cái tâm đó, bốn uẩn thấy chúng y chỉ
vào Sắc thân, những điều đó rằng được bạn lành nhiếp thu. Luận nói rằng: Nếu chẳng
nói “Kiến” (thấy) thì hoặc có người cho rằng Như Lai dùng Tỉ Trí dể “Tri” (biết).
Nếu chẳng nói “Tri” thì hoặc sẽ có người cho rằng Như Lai dùng mắt thịt (Nhục
Nhãn) để “Kiến” (thấy) cho nên cần phải dùng cả hai từ ngữ.
“Đắc phước Đức”; bản Đời Ngụy dịch là
“Sinh phước Đức như vậy, thủ phước đức như vậy”. Luận nói: “Sinh” là có khả năng
sinh ra nhân. “Thủ” là huân tu quả của tự thể. Ngài Vô Trước nói: “Sinh” là có
khả năng Sinh ra Nhân. “Thủ” là huân tu quả của tự thể. Ngài Vô Trước nói:
“Sinh” là khi phước đang khởi, đang hiện hành. “thủ” là ngay khi kia diệt, nhiếp
trì chủng tử, chữ “Đắc” ở đây là gộp cả hai nghĩa Sinh và Thủ, chẳng lìa khỏi
“Đắc”. Một chữ “Đắc” bao gồm cả Sinh và thủ.
Nguyên do Nhiếp thọ, hiểu Trí Huệ Môn:
Do từ không có hai chấp mà đắc nhiếp thọ: Văn chia ra hai phần: – Đã đoạn thô
chấp.
Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh,
vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng
diệc vô phi pháp tướng.
Phần đầu là trưng hỏi niềm tin: Vì những
nghĩa gì mà được Như Lai thảy biết thảy thấy? Phần sau là giải thích hai nguyên
do”
1. Vì không có Ngã chấp. Chấp thủ tự thể
là Ngã. Cho rằng Ta (Ngã) triểu chuyển từ cõi này đến cõi khác đó là Nhơn. Cho
rằng ta thịnh suy khổ, vui, nhiều thứ biến đổi khác nhau liên tục nối tiếp
nhau, đó là chúng sanh, cho rằng ta một báo mệnh căn chẳng đoạn mà trụ, đó là
thọ giả.
2. Vì không có pháp chấp: Luận nói: “Vô
pháp tướng” là Năng thủ và sở thủ nhất thiết pháp đều vô (không có). Diệc vô
phi pháp tướng”; là Vô Ngã Chơn không thật hữu. Mà Ly hai chấp, chính là đắc Phật
tri kiến, thành tựu cái gốc Tịnh tín, thiện căn phước đức, cả hai cùng kiêm
nhau. Luận nói: Có Trí Huệ thì đủ rồi sao lại còn nói thêm công đức trì giới?
Vì để thị hiện nghĩa thật tướng sai biệt nên cũng có công đức trì giới. Vì
nương theo tín tâm, cung kính thì có thể sanh ra thật tướng.
Không chỉ thuyết về Nhân của Bát-nhã.
– Chưa trừ tế chấp.
Hà dĩ cố? thị chư chúng
sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngã nhơn chúng sanh thọ giả. nhược thủ
pháp tướng tức trước ngã nhơn chúng sanh thọ giả. Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp
tướng tức trước ngã nhơn chúng sanh thọ giả.
Từ “Nhược tâm thủ…” là nói chung về hai
tướng, giải thích chung về Thủ pháp và phi pháp, đều gọi là tướng. Vừa lại kiến
lập thủ tướng, tức là những tướng Ngã, Nhơn… thì sẽ sinh lập nghĩa tông. Từ
“Nhược thủ pháp…” là nói về Hai tướng. Luận nói: Chỉ có vô minh sử, không có hiện
hành thô phiền não, thị vô ngã kiến. Ngài Vô trước nói: chỉ thủ pháp và phi
pháp tương chuyển nhau những tưởng phi ngã,… để những tưởng ngã,… đật đến y chỉ
chẳng chuyển. Trong đó có nêu câu hỏi: Thủ pháp chỉ bị pháp tướng. Vì sao lại
trước Ngã…? Giải thích rằng: thủ phi pháp còn bị trước ngã, huống nữa là thủ
pháp. Dùng câu sau để giải thích câu trước.
4. Huyền môn trung đạo.
Thị cố bất ưng thủ pháp, bất
ưng thủ phi pháp. Dĩ thị nghĩa cố Như Lai thường thuyết như đẳng Tỳ kheo tri
ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả. Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp.
(Do vậy, chẳng nên thủ pháp, chẳng nên
thủ phi pháp. Do vì nghĩa này, Như Lai thường nói: Tỳ kheo các ông, biết ta
thuyết pháp như dụ chiếc bè, pháp còn nên xả, huống nữa phi pháp.)
Câu đầu là chánh kết quy về Trung. Câu
sau là dẫn lời nói để làm chứng.
“Phiệt Dụ”: (Dụ chiếc bè) mượn lời để hiển
nghĩa, chẳng n6n như lời chấp nghĩa. Chẳng chấp tức là chẳng thủ, chẳng phải là
hoàn toàn vứt bỏ. Kệ nói: “Kia bất trú tùy thuận, chứng trí ở trong pháp”. Luận
giải thích rằng: “ Bất trú” là đắc chứng trí. Xả bỏ giáo nếu đã đến bờ kia.
“Tùy Thuận” là tùy thuận giáo pháp để chứng trí kia, nếu chưa đến bờ. Ngài Vô
Trước nói: “Pháp còn phải xả” là vì Thật tướng đã sạch “Huống nữa phi pháp” là
vì lý bất tương ưng.
3. Đoạn mối nghi cho rằng Vô tướng thì
làm sao thuyết được? Phần trên đã nói rằng chẳng thể dùng tướng để thấy Phật,
Phật chẳng phải Hữu vi thì sao Thích Ca lại đắc A Nậu Bồ-đề? Sao lại thuyết
pháp?
Văn đoạn chia ra hai phần.
1. Vấn đáp đoạn nghi. Có bốn phần.
a) Nêu nhạn nghi để hỏi.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như
Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ-đề da? Như Lai hữu sở thuyết pháp da?
Phật hỏi đắc hay không; ý tỏ chẳng đắc.
Ngài Vô Trước nói: Hiển thị phiên thủ ở chánh giác.
b) Thuận thật lý để đáp.
Tu Bồ-đề ngôn: như ngã giải
Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp danh A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, diệc
vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết.
Kệ nói: “Ứng hóa phi Chơn Phật, diệc phi
thuyết pháp giả” (Ứng Phật và Hóa Phật chẳng phải là Chơn Phật, cũng chẳng phải
là bậc thuyết pháp).
c) Giải thích câu nói “Vô định pháp”.
Hà dĩ cố? Như lai sở thuyết
pháp giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp.
Ngài Vô Trước nói: “Bất khả thủ” là khi
đang nghe. “Bất khả thuyết” là khi đang nói: “phi pháp” là vì phân biệt tính.
“Phi phi pháp” là vì pháp vô ngã lý. Luận nói: Pháp kia phi pháp, phi phi pháp
là nói theo nghĩa của Chơn Như. “Phi pháp”; là vì tất cả pháp không có thể tướng.
“Phi phi pháp”, là Chơn Như kia Vô ngã Thật tướng hữ. Vì sao chỉ nói “Thuyết mà
chẳng nói “chứng”? có người nói rằng: Vì thuyết 32 tức thành nghãi chứng. Vì nếu
chẳng chứng thì chẳng thể thuyết.
d) Giải thích nguyên do vô thủ vô thuyết.
Sở dĩ giả hà? nhất thiết Hiền
Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt.
Bản dịch đời Ngụy viết: “tất cả Thánh
nhân đều nhờ Vô vi pháp mà đắc tên”. Luận ý nói: Thánh nhân chỉ nương Chơn như
thanh tịnh mà đắc danh. Vì chẳng phải riêng đắc pháp, cho nên vô thủ, vô thuyết.
“Nhi Hữu Sai biệt” (mà có sai biệt): Luận
nói: Chơn Như cụ túc thanh tịnh, (một) phần thanh tịnh. Ngài Vô Trước nói: “Vô
vi” nghĩa là vô phân biệt. do vậy mà Bồ-tát Hữu học đác danh, Như Lai Vô Học đắc
danh.
“Sở Vô Vi”; Hiển liểu rõ khi chiết phục
tác loạn. “Hậu vô vi” là duy chỉ Đệ Nhất Nghĩa, vô thượng giác. Tam thừa hiền
thánh đều tu chứng vô vi, cho nên nói chung đó là sai biệt.
2. So sánh tỏ hơn. Có 4 phần:
a) Nêu kém phước để hỏi.
Tu Bồ-đề, ư ý vân hà, nhược
nhơn mã tam thiên đại thiên thế giới nhất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhơn sở đắc
phước đức ninh vi đa bất?
Kệ của Câu Xá Luận nói rằng: “Bốn đại
châu Nhật Nguyệt, Tô Mê Lô Dục Thiên, Phạm Thế mỗi một ngàn, là một Tiểu Thiên
giới, ngàn lần Tiểu Thiên này, gọi là một trung Thiên, ngàn trên là Đại thiên,
đều đồng một thành hoại”.
“Thất bảo”: Là vòng, bạc, lưu ly, san
hô, mã não, Chơn châu đỏ, pha lê.
b) Phước nhiều để đáp.
Tu Bồ-đề ngôn: thậm đa, Thế
Tôn! hà dĩ cố, thị phước đức tức phi phước đức tính, thị cố Như Lai thuyết phước
đức đa.
Ngài Vô trước nói: “Thị phướ Đức”; là
nêu lại. “Tức phi”; là dựa theo Thắng Nghĩa không. “Thị cố”; là dựa theo Thế Tục
Hựu.
c) Phước kinh vượt trội.
Nhược phục hữu nhơn ư thử
kinh trong thọ trì nải chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thẳng bỉ.
Kệ nói: “Thọ trì pháp và thuyết, bất
không với phước Đức, phước chẳng đến Bồ-đề, hai kia đến Bồ-đề”.
“Tứ cú”; là nghĩa được tỏ rõ ở bốn câu,
rốt cuộc tức thành bốn câu kệ. Như “Phàm sở hữu tướng tức là hư vọng, nếu thấy
chư tướng phi tướng tức thấy Như Lai”, đây là tối diệu nhất. Nhưng nghĩa thấy bốn
câu, trì và thuyết thì thú hướng đến Bồ-đề, văn hoặc tăng hoặc giảm, bất tất chỉ
có bốn chữ, nghĩa nếu thiếu sót thì sẽ thành ra là phỉ báng.
d) Giải thích nguyên nhân vượt trội, có
hai phần:
– Chánh giải thích:
Hà dĩ cố, Tu Bồ-đề, nhất thiết
chư Phật cập Chư Phật A-nậu-đala-tam-miệu-tam-bồ-đề pháp, giai tòng thử kinh xuất.
“Chư Phật Bồ-đề Pháp”: Luận nói: gọi là
pháp thân. Pháp thân với kia, hai thứ này có thể làm Nhân cho liểu.
“Nhất Thiết Chư Phật”; tức là báo thân
và Hóa thân. Luận nói: Với đây có thể làm Nhân cho Sanh.
– Chuyển giải thích.
Tu Bồ-đề sở vị Phập pháp tức
phi Phật pháp.
Trong đệ nhất nghĩa, không có Phật pháp
từ kinh này xuất ra.
4. Đoạn mối nghi Thanh Văn đắc quả là Thủ.
Luận nói: Phần trên nói rằng Thánh nhơn
vô vi pháp bất khả thuyết bất khả thủ thì vì sao thanh văn lại đều thủ tự quả,
như chứng mà thuyết? Văn đoạn trừ mối nghi có phần:
a) Nhập Lưu quả.
Tu Bồ-đề! ư ý vân hà? Tu Đà
Hoàn năng tác thị niệm; ngã đắc Tu Đà Hoàn quả bất? Tu Bồ-đề ngôn: bất dả, Thế
Tôn! hà dĩ cố? Tu Đà Hoàn danh vi nhập lưu nhi vô sở nhập. bất nhập sắc thanh
hương vị xúc pháp. thị danh Tu Đà Hoàn.
Tu Đà Hoàn: Tiếng Hán gọi là Nhập Lưu,
nhập vào dòng Thánh nhân. Còn gọi là Dự Lưu, dự dòng Thánh Nhân. Chỉ do chẳng
nhập vào lục trần, gọi là nhập Thánh lưu. Không phải là riêng có chỗ nhập. Luận
nói: Thánh nhân đắc quả, chẳng thủ một pháp, chẳng thủ cảnh giới lục trần, cho
nên gọi là Nghịch lưu, cho đến La Hán chẳng thủ một pháp, do vì nghĩa ấy, gọi
dan là A La Hán, nhưng chẳng phải bất thủ vô vi tự quả, chỉ ngay khi chứng, lìa
thủ Ngã,.. phiền não, do đó không có tâm như thế này “Ta đắc được quả”.
Nếu khởi tâm như vầy “ta đắc quả” thì tức
trước Ngã,… cho nên biết đắc quả nghĩa là nất thủ thì đâu thể nghi rằng là Thủ.
b) Nhất Lai Quả.
Tu Bồ-đề! ư ý vân hà. Tư Đà
Hàm năng tác thị niệm ngã đắc Tư Đà Hàm quả bất? Tu Bồ-đề ngôn: bất dả! Thế
tôn! hà dĩ cố? Tư Đà Hàm danh nhất vãn lai nhi thật vô vãn lai, thị danh Tư Đàn
Hàm. Tư Đà Hàm: tiếng Hán gọi là Nhất Lai, Đoạn dứt
sáu phẩm Tu Hoặc thuộc Dục giới, từ đó mệnh chung, một lần sanh lên trời, một lần
sinh đến Nhơn gian, bèn đắc A La Hán quả. Cho nên gọi là Nhất Lai mà 3 thật Vô
Lai, đã ngộ vô ngã thì vãn lai.
c) Bất Lai Quả.
Tu Bồ-đề. ư ý vân hà A Na
Hàm năng tác thị niệm ngã đắc A Na Hàm quả bất? Tu Bồ-đề ngôn: bất dả. Thế Tôn!
hà dĩ cố? A Na Hàm danh vi bất lai nhi thật vô bất lai. thị cố danh A Na Hàm
“A Na Hàm”: Tiếng Hán gọi là Bất Lai.
Còn gọi là Bất Hoàn. Đoạn hết chín phẩm Tu Hoặc của Dục Giới. Mệnh chung vãn
sanh lên trời chẳng trở về lại lạ giới, cho nên gọi là Bất Lai, nhưng thật
không có nghĩa Bất Lai, giống như giải thích trên.
d) Bất Sanh Quả: (A La Hán)
A La Hán: ở đây thích nghĩa có ba nghĩa:
1. Vô tặc (không còn giặc) Tam giới kiếu tu, phiền não hết tận; 2. Bất Sanh; chẳng
thọ nhận Hậu Hữu (Hữu Sau, tức là thân xác kiếp sau) nữa; 3. Ứng Cúng; đáng được
thọ nhận sự cúng dường to lớn của người và trời.
Văn chia ra ba phần:
a) Nêu sở đắc để hỏi.
Tu Bồ-đề! ư ý vân hà, A La
Hán năng tác thị niệm, ngã đắc A La Hán đạo bất?
b) Tỏ vô thủ để đáp.
Tu Bồ-đề ngôn: bất dã, Thế
Tôn! hà dĩ cố? thật vô hữu pháp A La Hán, Thế Tôn! Nhược A La Hán tác thị niệm:
ngã đắc A La Hán đạo, tức vi trước ngã nhơn chúng sanh thọ giả.
(Tu Bồ-đề nói: không ạ, Thế Tôn! Vì sao?
Thật không có pháp gọi là A La Hán. Thế Tôn! Nếu A La Hán nghĩ thế này; “Ta đắc
A La Hán Đạo”, tức bị trước Ngã, Nhơn, chúng sanh, Thọ giả).
c) Dẫn cái chứng của mình khiến tin: có
ba phần:
– Phật trước kia đã nói ấn
chứng.
Thế tôn! Phật thuyết ngã đắc
vô tránh Tam muội. nhơn trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A La Hán.
(Thế Tôn! Phật nói con Đắc Vô Tránh tam
muội, là đệ nhất trong loài người, là đệ nhất Ly Dục A La Hán).
“Vô Tránh”; chẳng não chúng sanh, có khả
năng khiến cho chúng sanh chẳng khởi phiền não, cho nên Phật khen ngợi. Trong
mười đệ tử, Thiện Hiện là người ly dục đệ nhất. Tam giới phiền não, chỉ có tâm
tham, đều gọi là Dục, chẳng phải chỉ ở Dục giới mới gọi là Dục.
– Tỏ rằng mình chẳng thủ.
Ngã bất tác thị niệm, “Ngã
thị ly dục A La Hán”.
– Giải thích ý Phật.
Thế Tôn! Ngã nhược tác thị
niệm: “Ngã đắc A La Hán đạo”. Thế Tôn tắc bất thuyết “Tu Bồ-đề thị lạc A Lan Na
Hạnh giả”. dĩ Tu Bồ-đề thật vô sở hạnh nhi danh Tu Bồ-đề thị lạc A Lan Na Hạnh
giả.
Luận nói: ly hai loại chướng: 1. Phiền
não chương; nhờ đắc A La Hán, cho nên ly; 2. Tam muội chướng; nhờ đắc Vô Tránh
mà ly. Vì ly cho nên vô sở hành.
“A Lan Nhã”: Đây gọi là Tịch Tĩnh.
1/ Đoạn mối nghi, Thích Ca ở Nhiên Đăng
thủ thuyết.
Luận nói: Thích Ca xưa kia thọ nhận pháp
ở nơi Nhiên Đăng Phật. Phật thuyết pháp cho Phật này thì sao lại nói là bất khả
thủ, bất khả thuyết.
Phật CÁO TU Bồ-đề: Ư Ý VÂN HÀ, NHƯ LAI
TÍCH TẠI NHIÊN ĐĂNG Phật SỞ, Ư PHÁP HỮU SỞ ĐẮC BẤT? BẤT DẢ, THẾ TÔN! NHƯ LAI TẠI
NHIÊN ĐĂNG Phật SỞ Ư PHÁP THẬT VÔ SỞ ĐẮC.
“Ư pháp thật vô sở đắc”; Nhiên Đăng Phật
thuyết nói, thuyết nói là ngữ ngôn lời nói, Thích Ca Nghe chỉ là nghe ngữ ngôn
lời nói, lời nói thì chẳng phải là Thật trí chứng pháp. Luận nói: Thích Ca ở chỗ
Nhiên Đăng, ngôn ngữ nói ra, chẳng thủ chứng pháp, do vì nghĩa ấy, mà nói rõ rằng,
chứng Trí kia chẳng thể nói, chẳng thể thủ.
2/ Đoạn mối Nghi: Nhiên Thổ Trái Với
Bất Thủ.
Luận nói: Nếu pháp bất khả thủ thì sao
chư Bồ-tát lại thủ trang nghiêm Tịnh Thổ? Sao lại tự mình thọ nhận thân pháp
vương?
Đoạn dứt mối nghi trên, văn có ba phần:
a) Nêu thủ tướng trang
nghiêm để hỏi:
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà. Bồ-tát
trang nghiêm Phật thổ bất?
Ý Phật muốn nói về pháp Tính Chơn Thể,
cho nên hỏi thủ hay không thủ trang nghiêm Thổ thuộc về hình tướng?
b) Giải thích ly tướng trang
nghiêm để đáp.
Bất dả, Thế Tôn! hà dĩ cố?
Trang nghiêm Phật thổ giả tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
Kệ rằng: “Trí tập, Duy Thức thông, Như
Thị thủ Tịnh Thổ, phi hình đệ nhất thể, phi nghiêm, trang nghiêm ý”. (Trí tập
thì Duy Thức thông, như vậy mà thủ Tịnh Thổ, chẳng hình là đệ nhất Thế, chẳng
nghiêm là trang nghiêm ý) luận giải thích câu kệ trên rằng: Chư Phật không có sự
việc trang nghiêm quốc thổ, duy chỉ Trí Huệ Chơn thật tu tập thì thức mới thông
đạt. Vì vậy mà bất khả thủ.
Trang nghiêm có hai: 1. Hình tướng; 2. Đệ
nhất nghĩa tướng “Phi nghiêm”: là vì không có hình tướng.
“Trang nghiêm ý”; tức là đệ nhất rtang
nghiêm, nhờ tất cả mọi công đức mà thành tựu trang nghiêm.
c) Khuyên nương theo tịnh
tâm trang nghiêm.
Thị cố Tu Bồ-đề! Chư Bồ-tát
Ma Ha Tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trú sắc sanh tâm, bất ưng
trú thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm.
Luận nói: Nếu người phân biệt Phật thổ,
là Hữu vi Hình tướng mà nói rằng “Ta đã thành tựu” thì người đó trú ở trong những
cảnh sắc,.. để ngăn chặn điều đó mà nói rằng “Nên như vậy sanh thanh tịnh tâm,
chẳng nên trú sắc,… mà sanh kỳ tâm” tức là chánh trí, đó là Chơn tâm, nếu đều
vô tâm thì sẽ là đồng với không kiến.
7. Đoạn mối Nghi: thọ nhân được Báo
Thân, tức là có thủ, Ý nghi như trên. Văn đoạn có hai phần:
Hỏi đáp đoạn nghi.
Tu Bồ-đề thí như hữu thân
như Tu Di Sơn Vương, ư ý vân hà, thị thân vi đại bất? Tu Bồ Dề ngôn: thậm đại,
Thế Tôn! hà dĩ cố? Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân.
Luận nói: Như Tu Di Sơn Vương, thế lực
cao xa gọi danh là Đại, mà chẳng thủ “Ta là Sơn vương”. Vì bởi vô phân biệt.
báo Phật cũng như vậy, vì đắc cái Thể pháp vương vô thượng nên gọi danh là Đại,
nhưng chẳng thủ “Ta là pháp vương”, bởi vì không có phân biệt, cho nên kệ rằng:
“Như Sơn Vương vô thủ, Thọ Báo cũng như vậy”.
“Phi Thân, Danh thân”; chẳng phải là
Thân Hữu lậu hữu vi, là Thân vô lậu vô vi. Cho nên kệ nói: “Viễn ly ở chư lậu,
và các Hữu vi pháp”. Luận nói: Nếu như vậy thì không có vật, nếu như vậy thì
danh có vật, vì bởi duy chỉ có thanh tịnh thân, vì bởi viễn ly Hữu vi pháp, do
vì nghĩa đó, thật có Ngã Thể. Vì chẳng y tha duyên mà trú.
2. So sánh tỏ rõ hơn hẳn, có hai phần:
a. Dựa theo ngoại tài so sánh tỏ rõ rằng
kinh hơn hẳn. Có 2 phần:
– So sánh hơn kém: Có ba phần:
+ Dùng nhiều con sông để biện về số cát.
Tu Bồ-đề! Như hằng hà trong
sở hữu sa số, như thị sa đẳng hằng hà, ư ý vân hà? Thị chư hằng hà sa ninh vi
đa bất? Tu Bồ-đề ngôn: thậm đa. Thế Tôn! Đản chư hằng hà thương đa vô số, hà huống
kỳ sa.
“Hằng hà”; Sông Hằng, chảy ra từ mặt
đông Hồ A Nậu, diện tích bốn mươi dặm, cát mịn như bột, cát vàng cuồn cuộn. Phật
đa phần ở gần vùng đó thuyết pháp, cho nên lấy nó làm dụ.
+ Lấy nhiều cát để tỏ về phước.
Tu Bồ-đề! ngã kim thật ngôn
cáo nhũ: nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, dĩ thất bảo mãn nhỉ sở hằng sa
hà số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng bố thí, đắc phước đa bất? tu Bồ-đề
ngôn! thâm đa, Thế Tôn!
Luận nói: Phần trên đã nói dụ, sao lại
còn nói? Kệ rằng: “Nói nhiều nghĩa khác nhau, cũng thành so sánh hơn, phước sau
hơn phước trước, nên lại nói thắng dụ”. Vì sao chẳng nói dụ này trước? Vì để dần
dần giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh tin vào nghĩa thượng diệu. Lại nữa,
vì trước chưa nói rõ dùng những công đức gì để đắc Bồđề.
+ Dựa theo nhiều phước để tỏ rõ sự hơn hẳn.
Phật cáo tu Bồ-đề: nhược thiện
nam tử thiện nữ nhơn, ư thử kinh turng, nải chí thọ trì tứ cú kệ đẳng. vị tha
nhơn thuyết nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.
Bố thí thì cảm ứng sinh tử, kinh kệ thì
hướng đến Bồ-đề, đại ý giống như trên.
– Giải thích nguyên do hơn. Có năm phần:
+ Tôn xứ, khen Nhơn thắng. Có ba phần:
– Xứ đáng kính.
Phục thứ, Tu Bồ-đề! Tùy thuyết
thử kinh nải chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ nhất thiết thế gian Thiên Nhơn
A Tu La giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu.
Kinh Đại Bát-nhã nói: Thiên Đế chẳng ngồi
trên tòa trong cung, chư thiên nếu đến, chỉ thấy tòa trống, vẫn đều tác lễ,
cúng dường rồi đi.
“Tốt Đổ Ba”; tiếng Hán gọi là cao hiển.
“Tháp”: biên quốc phát âm sai, là miếu
miểu, đặt hình mạo Phật ở trong Tháp.
– Người gặt hái ích lợi.
Hà huống hữu nhơn tận năng
thọ trì đọc tụng. Tu Bồ-đề! đương tri thị nhơn thành tựu tối thượng đệ nhất hy
hữu chi pháp.
Phần trên nói: “Chỉ thọ rì bôn câu thôi
thì đã hơn hẳn rồi”, huống nựa là ở phần này “tận năng thọ trì” cả cuốn kinh!
Cho nên là tối thượng đắng!
– Nơi có Phật.
Nhược thị kinh điển sở tại
chi xứ tắc vi hữu Phật, Nhược Tôn Trọng
Đệ Tử.
Kinh hiểu rõ rằng Như Lai pháp thân
nương vào pháp thì có Báo thân và hóa thân. Lại nữa, tất cả Hiền Thánh nhờ vô
vi mà đắc danh.
Kinh hiển rõ rằng vô vi ắt có hiền
Thánh, đệ tử tôn quý.
+ Dựa theo nghĩa mà giải thích nói về
tên kinh.
Nhỉ thời. Tu Bồ-đề bạch Phật
ngôn: Thế Tôn! đương hà danh nhỉ thời, Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! đương
hà danh thử kinh? Ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo Tu Bồ-đề: thị kinh danh
vi Kim cang Bát-nhã Ba-La-Mật. Dĩ thị danh tự nhủ đương phụng trì, sở dĩ giả
hà? Tu Bồ-đề! Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật tắc phi Bát-nhã BaLa-Mật.
Phật đặt tên kinh là dựa theo Năng Đoạn
Hoặc. Vì Đoạn Hoặc cho nên là Thắng, (là đặc biệt, là hơn hẳn, là vượt trội…)
“Tắc phi Bát-nhã”; Ngài Vố trước nói: Vì
để đối trị chấp dính như lời đã nói.
+ Phật không có thuyết khác.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà, như
lai hữu sở thuyết pháp bất? Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai vô sở
thuyết.
“Vô sở thuyết”; là thuyết một cách không
có thêm bớt, không có riêng khác, chỉ như chứng mà thuyết, đã như thế thuyết tức
vô sở thuyết Tam thế Phật (Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai) đều vậy.
Cho nên nói rằng là “Vô dị thuyết” ( không có thuyết khác nhau). Cho nên luận
nói: “Không có một pháp nào chỉ riêng một Như Lai thuyết, các Phật khác chẳng
thuyết”. Ngài Vô Trước nói: Đệ nhất nghĩa thì chẳng nói ra.
+ Bố thí phước kém (liệt), vi trần hơn
(thắng).
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà. tam
thiên đại thiên thế giới sở hữu vi trần, thị vi đa bất? Tu Bồ-đề ngôn: Thậm đa:
Thế Tôn! Tu Bồ Đế! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần,
Như Lai thuyết thế giới, phi thế giới, thị danh thế.
Luận nói: Phước đức của Bố thí tiền bạc
là Nhân của phiền não. Vì có thể thành tựu sự việc phiền não, bụi đất là vô ký,
chẳng phải Nhân phiền não, cho nên bụi trần thắng hơn, bố thí kém hơn. Đại Vân
nói: Chư địa trần thì chẳng phải những phiền não như tham… là Vô Kỳ Đại trần,
Như Lai nói Tam Thiên giới chẳng phải là Nhân nhiễm phiền não, giới là Danh Địa
Trần, vô ký giới là Trần, Nhân trần chẳng sanh phiền não. Thí là Nhân phước,
Nhân phước sanh phiền não.
+ Cảm quả ly tướng thằng.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà, khả dĩ
tam thập nhị tướng kiến Như Lai bất? Bất dả, Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập
nhị tướng đắc kiến Như Lai. hà dĩ cố! Như lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị
phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng.
E người Bố thí tài bảo nói rằng: Tôi bố
thí để tu cầu thành Phật ai nói là phiền não? Cho nên ở đây kinh nói: Có thể
cho tướng là Phật hay không? Luận nói: Trì và thuyết pháp này có thể thành Bồ-đề,
hơn nẳn phước kia. Vì sao? Vì tướng kia đối với Phật Bồ-đề chẳng phải là tướng
pháp thân, phước của kinh có thể hàng phục ba mươi hai tướng phước đức Bố Thí,
Ý nói rằng phước của kinh hàng phục Bố thí, đắc được thâm Phật sắc tướng. Nếu
chí riêng Bố thí tài bảo thì tức là nhân phiền não.
b. Dựa theo Nội tài so sánh gấp bội để
hiểu tỏ kinh hơn hẳn. Có hai phần:
– So sánh hơn kém
Tu Bồ-đề! Nhược hữu thiện
nam tử thiện nữ nhơn dĩ hằng hà sa đẳng thân mệnh bố thí, nhược phục hữu nhơn,
ư thử kinh trong nải chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thậm
đa.
Xả thân thì hơn hẳn Bố thí tài bảo, trì
và thuyết lại còn hơn hẳn xả bỏ thân.
– Giải thích nguyên nhân thắng
hơn. Có phần:
+ Khóc than chưa được nghe pháp thâm
sâu.
Nhỉ thời, Tu Bồ-đề văn tuyết
thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: hy hữu! Thế
Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điên, ngã tòng tích lai, sở đắc huệ
nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh.
Nổi khổ xả thân, đã cảm lòng người, huống
nữa còn nghe, chẳng bằng trì thuyết, do vậy buồn khóc. Luận nói: nghĩ thân kia
khổ, vì tôn trọng pháp mà buồn khóc. Huệ Nhãn thì Nhơn không, chưa nghe pháp
không.
+ Tịnh tâm khế với Thật, đủ Đức. Có hai
phần:
– Chánh tỏ.
Thế Tôn! Nhược phục hữu
nhơn, đắc văn thị Kinh. Tín tâm thanh tịnh tắc sanh thật tướng. Đương tri thị
nhơn thành tựu đệ nhất hy hữu công đức.
Luận nói: Trong đây có thật tướng, những
giáo khác thì phi Thật tướng.
– Phật tích.
Thế Tôn! Thị thật tướng giả
tắc thị phi tướng, thị cố như lai thuyết danh thật tướng.
Ngài Vô Trước nói: Vì đề ly (lìa khỏi, rời
khỏi) Tưởng phân biệt về Thật tướng.
+ Tín giải ba không, đồng Phật thắng. Có
ba phần:
– Nêu chung về Tín giải.
Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như
thị kinh điển, tín giải thọ trì bất túc vi nan, nhược đương lai thế, hậu ngũ
bách tuế, kỳ hữu chuáng sanh, đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhơn tắc
vi đệ nhất hy hữu.
Ngài Vô trước nói: Vị lai, khi thời pháp
diệt, còn có Bồ-tát thọ trì mà không có thủ Ngã, Nhơn… sao nay các ông đang ở
thời chánh pháp mà lại xa lìa tu hành, chẳng snah hổ thẹn.
– Hiển riêng ba không.
Hà dĩ cố? Thử nhơn vô ngã tướng,
nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Sở di giả hà? Ngã tướng tức thị
phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức thị phi tướng. Hà
dĩ cố? Ly nhất thiết chư tướng tức danh Chư Phật.
Ngài Vô Trước nói: “Vô Ngã…” là không có
người thủ ngã,… “tức Phi tướng”, là không có pháp thủ. “Ly Nhất thiết”; hiển thị
rằng chư Bồ-tát tùy thuận Học Tướng, chư Phật Thế Tôn ly tất cả tướng. Do vậy
chúng ta nên Học như vậy.
– Như Lai ấn định.
Phật cáo Tu Bồ-đề: như thị! Như thị!
+ Khi nghe, bất động, hy hữu thắng.
Nhược phục hữu nhơn đắc văn
thị Kinh, bất kinh, bất bố, bất úy, đương tri thị nhơn thân vi hy hữu.
Luận nói: “Kinh”; là phi xứ (xứ trái, xứ
chẳng đúng, chỗ chẳng phải) sanh ra sợ. “Bố”; là vì chẳng thể đoạn dứt tâm
nghi. “Uy” là một mực cứ “bố”, tâm kia rốt cuộc rơi vào kinh bố.
+ Đại Nhân thanh tịnh đệ nhất thắng.
Hà dĩ cố? Tu Bồ-đề! Như lai
thuyết đệ nhất ba-la-mật phi đệ nhất Ba-La-Mật, thị danh đệ nhất Ba-La-Mật.
“Hà Dĩ Cố?” (vì cớ sao?) có hai nghĩa:
1. Theo với “chẳng kinh, chẳng sợ…” trên mà hỏi; 2. Đều theo những “Hơn hẳn” ở
phần trên để hỏi. Luận nói: pháp môn này gọi là Đại Nhân (Nhân lớn), vì hơn hẳng
những kinh khác, cho nên gọi là Thanh tịnh, vô lượng chư Phật đồng thuyết. Do vậy
Bố thí trân bảo không bằng công đức này. Do vậy trong phước đức kia, phước này
là hơn hẳn.
8. Đoạn Mối Nghi, Trì Thuyết Chưa Thoát
Quả Khổ
Luận nói: phần trên nói về xả thân, báo
quả là thân xác khổ đau, cho nên phước kém. Nếu vậy theo pháp môn này trì thuyết
chư Bồ-tát hành khổ hạnh, cũng là khổ quả, sao pháp này lại chẳng thàng khổ quả?
Văn đoạn mối nghi này, gồm hai phần:
1. Kể Siêu Nhẫn để của Nhẫn.
Tu Bồ-đề! nhẫn nhục Ba-La-Mật,
Như Lai thuyết phi nhẫn nhục Ba-La-Mật.
Nhẫn đáo bỉ ngạn (Nhẫn Ba-la-mật) đã lìa
khổ tướng, huống nữa là Bỉ Ngạn thì ai khổ, ai Nhẫn? Tướng của Nhẫn: Có hai phần:
a. Dẫn chuyện một kiếp chứng
cự khổ Nhẫn: gồm hai phần:
– Chánh tỏ
Hà dĩ cố? Tu Bồ-đề! Như ngã
tích vi Ca Lợi Vương phẩu triệt thân thể, ngã ư nhĩ thời, vô ngã tướng, vô nhơn
tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.
Ca Lợi: Tiếng Hán gọi là cực Ác. Phật
xưa làm Tiên, tu đạo trong núi. Vua đi săn, mệt mỏi bèn ngã. Cung phi cùng nhau
đến lễ bái Tiên. Vua hỏi Tiên đã đắc Tích quả chưa,đều đáp chưa đắc. Vua giận
chặt đứt thân thể, trời giận mưa đá. Vua sợ mà sám hối, Tiên chứng vốn không có
Sân, vua mới khỏi bị hại chết. Luận nói: Không những vô khổ mà lại có lạc, do
vì Từ bi.
– Phản hiển
Hà dĩ cố? Ngã ư vãn tích tiết
tiết, chi giải thời nhược hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng, ưng sanh sân hận.
b. Dẫn nhiều kiếp sống trước
để chứng cho tương tục Nhẫn.
Tu Bồ-đề! Hựu niệm quá khứ ư
ngũ bách thế tác nhãn nhục tiên nhơn, ư nhĩ sở thế, vô ngã tướng, vô nhơn tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.
Nhờ Tích lũy khổ, Nhẫn thành thục mà Lạc,
tương ưng với chánh Định từ bi. Kệ nói: “ly Ngã và Tướng Huế, thật kkj có khổ
não, cộng Lạc có từ bi, quả khổ hạnh như vậy”.
2. Khuyên ly tướng để an Nhẫn.
Luận nói: Nếu có Bồ-tát chẳng lìa Ngã tướng,
thấy khổ hạnh là khổ, muốn xả bỏ Bồ-đề tâm, vì vậy mà khuyên ly tướng. Ngài Vô
trước nói: Vì để đối trị những nhân duyên làm cho chẳng Nhẫn chịu nổi. Có ba loại
khổ: Đó là Khổ vì lưu chuyển, khổ vì chúng sanh trái nhau, khổ vì thiếu thọ dụng.
Văn có hai phần.
a. Nêu chung.
Thị cố, Tu Bồ-đề! Bồ-tát ưng
ly nhất thiết tướng phát A nậu đa la tam miệu tam Bồ-đề tâm.
Nếu ly tướng tất cả tướng là ly tướng của
ba khổ như trên.
b. Hiển riêng. Có hai phần.
– Đối trị chẳng nhẫn chịu nổi khổ lưu
chuyển.
Bất ưng trú sắc sanh tâm, bất
ưng trú thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trú tâm, nhược tâm hữu
trú tắc vi phi trú. Thị cố Phật thuyết: Bồ-tát tậm bất ưng trú sắc bố thí.
Phần đầu là Chánh tỏ rằng “Lưu” là Tập Đế,
“Chuyển” là Khổ Đế. Ngài Vô trước nói: Nếu trước dính Sắc,.. thì sẽ mệt mỏi
trong khổ lưu chuyển. Do vậy mà Bồ-đề tâm chẳng sanh. Phần sau là Dẫn chứng. Dẫn
lời nói trên về Vô trú thí”, gồm đủ sáu độ để chứng cho Văn này.
– Đối trị chẳng Nhẫn chịu nổi khổ trái
nhau.
Tu Bồ-đề! Bồ-tát vi lợi ích
nhất thiết chúng sanh, ưng như thị bố thí. Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng
tức thị phi tướng, hựu thuyết nhất thiết chúng sanh tắc phi chúng sanh.
Ngài Vô trước nói: Đã vì chúng sanh mà
hành thí sao lại sanh sân với chúng sanh? Do vì chẳng thể “Vô chúng sanh tưởng”,
nên khi chúng sanh trái nhau, mâu thuẩn nhau thì sanh ra mệt mỏi. Hiển thị rằng
Nhơn Vô Ngã, pháp Vô ngã. Luận nói: “Chư tướng”; là chúng sanh tướng. “Phi Tướng”,
là vô ngã. Thấy Ngã trong Ấm, đó là chúng sanh tướng. “Nhất Thiết chúng sanh”;
là pháp ngũ Ấm. “Phi chúng sanh”; vì Ấm không, cho nên pháp Vo ngã. “Khổ vì thiếu
thọ dụng” phối ở tại đoạn sau.
9. Đoạn Mối Nghi Cho Rằng Chứng Là Không
Có Thể, Chẳng Phải Nhân.
Luận nói: Ở trong chứng quả, không có lời
nói thì sao kia lại có thể làm Nhân cho quả? Văn đoạn mối nghi, có hai phần:
– Đoạn Nghi:
Tu Bồ-đề! Như Lai thị chơn
ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giã. Bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả.
Tất cả những lời Phật đã nó đều là đúng
như sự việc. Nay nói về chứng quả, sao lại nghi là chẳng vậy.
“Chơn ngữ”; là thuyết Phật thân đại Bồ-đề
pháp, đó là Hơn trí. “ Thật ngữ”; là thuyết về Tiểu Thừa Tứ Đế. Đế là thật
Nghĩa. “Như Ngữ”; là thuyết Đại thừa pháp, có Chơn Như. Tiểu Thừa thì không có
Chơn Như. Bất Dị Ngữ”; là thuyết về những sự chuyện ba đời thọ ký,.. không có
sai khác. Với bốn thứ ngữ đó Phật chẳng lừa dối chúng sanh, do vậy bản dịch đời
Tần thêm vào “bất cuống ngữ”.
– Ly chấp
Tu Bồ-đề! Như Lai sở đắc
pháp, thử pháp vô thật vô hư.
“Vô Thật”: là như tính của ngôn thuyết
là Phi Hữu (chẳng có) “Vô Hư”; là chẳng như tự tính của ngôn thuyết, cho nên là
Hữu (có).
10. Đoạn mối nghi cho rằng, như thì có
khắp, sao lại có người đắc, có người chẳng đắc?
Luận nói: Nếu Thánh Nhơn bằng Vô vi Chơn
Như Pháp mà đắc danh (là Thánh Nhơn), Chơn Như kia mọi thời, mọi nơi, hằng có
vì sao có người đắc, có người lại chẳng đắc?
Nêu ra Dụ để đoạn nghi.
Tu Bồ-đề! Nhược Bồ-tát tâm
trí ư pháp nhi hành bố thí, như nhơn nhập ám tắc vô sở kiến. Nhược Bồ-tát tâm bất
trú pháp nhi hành bố thí, như nhơn hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng
chúng sắc.
Luận nói: Không có Trí mà trú pháp, chẳng
thanh tịnh, cho nên chẳng đắc. Có Trí mà chẳng trú pháp, tâm thanh tịnh, cho
nên đắc.
“Hữu Mục” (có mắt); là như đắc pháp đối
trị. “Nhật quang” (ánh sáng mặt trời); giống như sở tại, bóng tối hết thì năng
trị hiện tiền.
“Không” là dụ cho Chơn Như. “Sắc” là dụ
cho Vạn Đức ở trên Tính.
2. Khen công đức của kinh. Gồm hai phần:
3. Nêu Chung
Tu Bồ-đề! Đương lai chi thế,
nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, năng ư thử kinh, thọ trì đọc tụng tắc vi
như lai do Phật trí huệ, tất tri
thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.
Ngài Vô trước nói: “Đọc tụng”; đây là
nói về Nhân của Thọ trì. Vì muốn thọ, cho nên “đọc”, vì muốn trì, cho nên “tụng”.
Luận nói: Tu hành bằng cách thọ trì là nương theo tổng tà pháp. Tu hành bằng
cách đọc tụng là nương theo Văn Huệ, đây tức là nghe pháp từ người khác, bên
trong tự mình tư duy suy ngẫm, đắc tu hành Trí. Cho nên kệ nói:
“Ta tòng tha cập nội” (tu là từ người
khác và bên trong).
4. Hiển riêng. Gồm mười phần:- Xả
Mệnh của Xả mệnh.
+ Phước của xả mệnh.
Tu Bồ-đề! Nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhơn, sơ nhật phần, do hằng hà sa đẳng thâm bố thí, trung nhật
phần; phục do hằng hà sa đẳng thâm bố thí. hậu nhật phần, diệc do hằng hà sa đẳng
thâm bố thí. như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp do thân bố thí.
Kệ nói: Bởi Sự và Thời lớn, thắng phước
đức trong phước” +•Phước do tin kinh.
Nhược phục hữu nhơn, văn thị
kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì đọc
tụng, vị nhơn giải thuyết.
Tin kinh phước kém hơn trì và thuyết
kinh. Xả nhiều mạng sống hơn hẳn dụ ở phần trên.
– Thừa khác chẳng đo lường nổi
Tu Bồ-đề! Dĩ yếu ngôn chi.
Thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xưng lượng, vô biên công đức.
Kệ nói: “Phi dư giả cảnh giới” (chẳng phải
cảnh giới của người khác). Ngài Vô Trước nói: “bất khả tư nghị”; là vì duy chỉ
tự giác. “bất khả xưng lượng”; là vì không có gì bằng hay hơn.
– Nương theo đại tâm mà thuyết.
Như Lai vi phát đại thừa giả
thuyết. Vi phát tối thượng thừa giả thuyết.
“Tối thượng”: là Nhất Phật Thừa.
– Đủ đức năng truyền
Nhược hữu nhơn năng thọ trì
đọc tụng, quảng vi nhơn thuyết như lai tất tri thị nhơn, giai đắc thành tựu bất
khả lượng, bất khả xưng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhơn đẳng
tắc vi hà đảm như lai A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
“Thành tựu…”: kệ nói: “Đầy đủ vô thượng
giới”.
“Hà đảm”; Ngài Vô Trước nói: Vai gánh
gánh nặng Bồ-đề.
– Vui Tiểu chẳng kham nổi.
Hà do cố? Tu Bồ Dề! Nhược lạc
tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tắc ư
thử kinh bất năng thính thọ, đọc tụng, vi nhơn giải thuyết.
– Chỗ sở tại như Tháp.
Tu Bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược
hữu thử kinh, nhất thiết thế gian, nhơn, thiên, A Tu La, sở ứng cúng dường,
đương tri thị xứ tắc vi thị tháp. giai ưng cung kính tác lễ vi nhiểu, dĩ chư
hoa hương nhi tán kỳ xứ.
– Chuyển tội, làm Phật.
Phục thứ, Tu Bồ-đề! Thiện
nam tử, Thiện nữ nhơn, thọ trì đọc tụng thử kinh, nhược vi nhơn khinh tiện, thị
nhơn tiên thế tội nghiệp ứng đọa đạo, do kim thế nhơn khinh tiện cố, tiện thế tội
nghiệp tắc vi tiêu diệt, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
“Khinh tiện”: trong đó bao gồm; hoặc bị
đánh đập, hoặc mắng chưởi. Bản đời Tùy dịch là: “Khinh tiện thậm khinh tiện”.
Ngài Vô Trước nói: Đây là sự hủy Nhục, có vô lượng môn. Lại nói: “Thậm khinh tiện,
sẽ đắc Bồ-đề”; là vì tội diệt.
– Siêu sự đa tôn (phước vượt
hơn phụng sự nhiều thế tông). Luận nói: thị hiện mau chóng chứng Bồ-đề pháp. Văn có hai phần:
+ Phước hoàn toàn đủ trong việc cúng nhiều
Phật.
Tu Bồ-đề! ngã niệm quá khứ
vô lượng A Tăng Kỳ kiếp, ư nhiêu đăng phật tiền, đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức
na do tha Chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả “Na Do Tha”:
Mười ức là một lạc xoa, mười Lạc xoa là một Câu kỳ. Mười Câu kỳ là một Na Do
Tha.
+ Phước trì kinh nhiều trong thiểu phần.
Nhược phục hữu nhơn. ư hậu mạt
thế, năng thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức ư ngã sở cúng dường Chư Phật
công đức, bách phần bất cập nhất, thiên vạn ức phần nải chí toán số, thí dụ sở
bất năng cập.
– Nghe đủ sẽ nghi.
Tu Bồ-đề! Nhược Thiện nam tử,
Thiện nữ nhơn, ư hậu mạt thế hữu thọ trì đọc tụng thử kinh sở đắc công đức, ngã
nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn tâm tắc cuồng loạn, hồ nghi bất tín.
– Tổng kết u huyền thâm thúy.
Tu Bồ-đề! Đương tri thị kinh
nghĩa bất khả tư nghị, quả báo hiện bất khả tư nghị.
Ngài Vô Trước nói: đây là hiển thị Thể của
phước kia và Thể của quả chẳng thể đo lường.
11. Đoạn mối Nghi: trú, tu, hàng phục là
Ngã.
Phật dạy ta trú, tu, hàng phục, kiêm
luôn bất trú mười loại nghi chấp lỗi lầm trên, nếu Vô Ngã thì ai người thọ
giáo, ai là người trú, tu, ai là người lìa những lỗi lầm như thế… còn nói rằng
trừ cái chấp vi tế. Kệ nói: “Tu hành ở Nội tâm, còn cho ta Bồ-tát, đó tức chướng
ngại tâm, trái với Đạo bất trú”.
Văn đoạn mối nghi này, có hai phần:
Hỏi:
Nhỉ thời, Tu Bồ-đề bạch Phật
ngôn: Thế Tôn! Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề
Tâm. Vân hà ưng trú? Vân hà hàng phục kỳ tâm?
2. Đáp: Gồm ba phần:
a) Nếu gọi là Bồ-tát thì ắt phải Vô Ngã.
Phật cáo Tu Bồ-đề: Nhược Thiện
nam tử, Thiện nữ nhơn phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề Tâm giả, đương sanh
như thị tâm: “Ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng
sanh do nhi vô hữu nhất chúng sanh thật diệt độ giả”.
b) Nếu có Ngã tướng thì chẳng phải Bồ-tát.
Hà dĩ cố? Nhược Bồ-tát hữu
ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tắc phi Bồ-tát.
c) Năng và Sở đều tịch, tức là Bồ-tát.
Sở dĩ giả hà? Tu Bồ-đề! Thật
vô hữu pháp phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề tâm giả.
12. Đoạn Mối Nghi: Nhân Phật là có Bồ-tát.
Luận nói: Nếu không có Bồ-tát thì sao
Thích Ca Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, hành Bồ-tát hạnh?
Văn đoạn mối nghi này. Có bốn phần:
1- Nêu chỗ Nghi.
Tu Bồ-đề!ư ý vân hà? Như Lai
Nhiên Đăng Phật sở, hữu pháp đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề bất?
Hàng oán Vương thỉnh mời Nhiên Đăng Phật
vào thành, trong thành, lớn nhỏ đều nghinh đón, đường bùn lầy, Thiện Huệ tóc,
Phật thọ ký cho. Vì vậy mà nêu câu hỏi này.
2- Đoạn Niệm Nghi.
Bất dả, Thế Tôn! Như ngã giải
Phật sở thuyết nghĩa Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ-đề.
Thiện Huệ thời đó, đều Vô sở đắc, lìa
các phân biệt, do từ Vô pháp mà đắc thọ ký. Nếu Hữu pháp: là có Tướng có tâm,
chẳng thuận Bồ-đề, Phật chẳng thọ ký cho.
3- Ấn quyết định.
Phật ngôn: Như thị! Như thị!
Tu Bồ-đề! Thật vô hữu pháp Như Lai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
Luận nói: “Ta vào thời đó, những hạnh đã
tu, không có một pháp nào đắc A Nâu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề”. Công đức Thí Luận,
dẫn lời Phật nói rằng: “ Nếu tháy ở Phật, tức thấy tự thân, thấy thân thanh tịnh,
thấy Phật thanh tịnh. Thấy Nhất Thiết trí thảy đều thanh tịnh, trong ấy thấy
Trí Thanh Tịnh cũng lại thanh tịnh, ấy danh thấy Phật, ta như vậy thấy Nhiên
Đăng Như Lai, đắc Vô Sanh Nhẫn, Nhất Thiết Trí Trí hiện tiền rõ ràng, liền đắc
thọ ký, tiếng thọ ký ấy, chẳng đến với tai, những trí khác cũng chẳng thể biết,
ta ngay khi ấy, cũng chẳng hôn mê vô giác, mà lại vô sở đắc”.
4- Phản phục giải thích.
Tu Bồ-đề! nhược hữu pháp Như
Lai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề giả. Nhiên Đăng Phật tắc bất dữ ngã thọ
ký, “Như ư lại thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni”. Dĩ thật vô hữu
pháp đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề, thị cố Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký
tác thị ngôn: “Hữu ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni”.
Ngài Vô trước nói: Nếu pháp chánh giác
có thể nói ra được như những điều Nhiên đăng kia đã nói thì ta vào thời đó đã đắc
chánh giác, Nhiên Đăng đã chẳng ký rằng “Đời sau sẽ đắc”, bởi vì pháp chẳng thể
nói ra được, nêu ta thời ấy chẳng đắc chánh giác, vì vậy mà ký rằng “đời sau sẽ
đắc”.
13. Đoạn Mối Nghi Không có Nhân Thì
Không Có Phật Pháp.
Trong này có ba phần:
1. Đoạn mối nghi cho rằng
không có Phật
Luận nói: Nếu không có Bồ-đề, tức không
có chư Phật Như Lai. Có người báng như vầy, một mực không có Phật. Để đoạn nghi
này, mà nói rằng: Như Lai tức là Chơn Như. Văn đoạn nghi này, có hai phần:
a) Tỏ rõ rằng Chơn Như là Phật, cho nên
phi vô (chẳng phải không có).
Hà dĩ cố? Như Lai Chư Pháp
chư nghĩa.
Ngài Vô Trước nói: Vì Như thanh tịnh nên
gọi đó là Như Lai.
Giống như vàng thật.
b) Tỏ rằng Phật tức Bồ-đề, cho nên Vô Đắc.
Nhược hữu nhơn ngôn: “Như
Lai A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề”. Tu Bồ-đề! Thật vô hữu pháp, Phật đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
Trước nêu ra cái hiểu sai lầm. Bản dịch
đời Ngụy dịch là: “Nếu có người nói: “Như Lai đắc A Nậu Bồ-đề”. Người ấy bất thật
Ngữ”. Phần sau là giải thích chánh kiến. Kệ nói: “Bồ-đề bỉ hành đẳng”, nghĩa là
Đẳng tiền Bồ-tát hành vô đắc. Ngài Vô Trước nói: Hoặc có người cho rằng ở chỗ
Nhiên Đăng Như Lai, với pháp chẳng đắc chánh giác. Thế Tôn về sau mới tự mình đắc
chánh giác. Vì để lìa khỏi chấp thủ đó mà nói rằng “Nếu có người nói …”
2. Đoạn mối nghi cho rằng một
mực không có pháp.
Luận nói: Có người báng rằng: Nếu không
có những Hạnh thuộc về Nhân thì Như Lai chẳng đắc A Nậu Bồ-đề. Để đoạn nghi này
mà nói rằng: “Như Lai sở đắc…”. Văn có hai phần.
a) Khiển trừ chấp, ngăn chặn Nghi.
Tu Bồ-đề! Như Lai sở đắc A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề, ư thị trung, vô thật vô hư.
Luận nói: Không có những tướng sắc,… đó
tức là tướng Bồ-đề. ngài Vố Trước nói: tỏ cả rằng Chơn Như vô nhị, nghĩa là
ngôn thuyết, nghĩa là chánh giác kia chẳng phải không có ngôn thuyết thế gian.
b) Giải thích nghĩa để đoạn nghi.
Thị cố Như Lai thiết pháp
giai thị Phật Pháp. Tu Bồ-đề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết
pháp, thị cố danh nhất thiết pháp.
Luận nói: “Nhất thiết pháp”; đều là Thể
Chơn Như, cho nên đều là Phật pháp. “Tức phi”, do vì những pháp, sắc,.. tức
Chơn Như, tức chẳng phải những pháp; sắc,… Chơn Như thướng không có các tướng sắc,…
“Thị Danh”, tức là tự tính của Chơn Như pháp.
3. Chơn Phật, Chơn pháp thế.
Tu Bồ-đề! Thí như nhơn thân
trường đại. Tu Bồ-đề ngôn: Thế Tôn! Như Lai thuyết nhơn thân trường đại, tắc vi
phi đại thân, thị danh đại thận.
Kệ nói: “Y kia pháp thân Phật, mà thuyết
Đại thân dụ Thân ly tất cả chướng, đến khắp tất cả cảnh”. Vì công đức đắc với
Thể lớn, tức nói rằng Đại Thân, phi thân, tức là thân. Do vậy thuyết Đại thân.
Luận nói: “Phi thân”. Vì không có các tướng. “Đại thân”; vì có Chơn Như Thể.
Ngài Vô Trước nói: Đại thân nhiếp tất cả chúng sanh, ở trong thân đó, an lập phị
tự phi tha.
14. Đoạn mối nghi không có người độ Sanh
Nghiêm Thổ:
Luận nói: Nếu không có Bồ-tát thì chư Phật
cũng chẳng thành Bồ-đề, chúng sanh chẳng nhập Niết-bàn, cũng không có Thanh Tịnh
Phật thổ thì sao Bồ-tát lại phát tâm, muốn khiến cho chúng sanh nhập Niết-bàn,
khởi tâm tu hành thanh tịnh Phật thổ.
Văn Đoạn nghi này có ba phần:
1. Ngăn chặng niệm độ chúng
sanh: gồm ba phần:
a) Thất niệm.
Tu Bồ-đề! Bồ-tát diệc như thị,
nhược tác thị ngôn: “Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh” tắc bất danh Bồ-tát
Kệ nói” Chẳng đạt Chơn pháp giới, khởi ý
độ chúng sanh, và thanh tịnh Phật thổ, sanh tâm tức là đảo”.
b) Vô Nhơn
Hà dĩ cố! Tu Bồ-đề! Thật vô
hữu pháp, danh vi Bồ-tát.
Đã không có pháp nào gọi là Bồ-tát, há lại
còn có ta độ chúng sanh?
c) Dẫn lời nói trước kia.
Thị cố Phật thuyết nhất thiết
pháp, vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.
2. Ngăn chặn niệm nghiêm Thổ. Có hai phần:
a) Tỏ thất niệm.
Tu Bồ-đề! Nhược Bồ-tát tác
thị ngôn: “Ngã đương trang nghiêm Phật thổ”, thị bất danh Bồ-tát.
b) Giải thích nguyên do.
Hà dĩ cố? Như Lai thuyết
trang nghiêm Phật thổ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
3. Giải thích thành Bồ-tát.
Tu Bồ-đề! Nhược Bồ-tát thông
đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh nhơn thị Bồ-tát.
Luận nói: nếu khởi tâm độ chúng sanh,
trang nghiêm Phật thổ, tức là điên đảo, chẳng phải Bồ-tát. Khởi những tâm gì gọi
là Bồ-tát? Cho nên kinh nói rằng: “Thông Đạt…”.
Ngài Vô trước nói: Đó là Nhơn Vô ngã,
pháp vô ngã.
15. Đoạn Mối Nghi Chư Phật Chẳng Thất
Chư Pháp
Luận nói: phần trên kia nói rằng Bồ-tát
chẳng thấy kia là chúng sanh, chẳng thấy ta là Bồ-tát, chẳng thấy thanh tịnh Phật
Thổ. Nếu như vậy thì chơ Phật chẳng thấy chư pháp?
Đoạn nghi này, văn có hai phần:
1. Dựa theo năm nhãn Năng kiến
để tỏ rõ kiến tịnh.
Kệ nói: “Tuy chẳng thấy chư pháp, chẳng
không mắt liểu cảnh.
Chư Phật năm loại thật, để thấy điên đảo
kia”. Văn có năm phần
a. Nhục Nhẫn.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như
Lai hữu nhục nhãn bất? Như thị Thế Tôn! Như lAi hữu nhục nhãn.
Trong cục thịt (con mắt) có thanh tịnh
săc, thấy chướng nội sắc, gọi đó là Nhục nhãn ( mắt thịt). Phật đủ các căn, cho
nên có Nhục Nhãn.
b) Thiên Nhãn.
Tu Bồ-đề! Ư ý văn hà? Như
Lai hữu thiên nhãn bất? Như thị Thế Tôn! Như Lai thiên nhãn.
Ở bên Nhục Nhãn, dẫn Tịnh Thiên nhãn, thấy
chướnnggoai sắc. Theo kinh Đại Bát-nhã, Nhục Nhãn của Phật có thể thấy vô số thế
giới trong người. Chẳng chỉ chướng nội. Nếu Thiên Nhãn của Phật có thể thấy tất
cả những sắc vi tế của chư Thiên thì ngoại trừ cõi Trời ra, thấy những sự việc
của người,.. gọi là Nhục nhãn vậy.
Kinh Tịnh Danh nói: Duy Phật Thế Tôn, đắc
Chơn Thiên Nhãn, soi tháy Hằng Sa Phật Thổ, chẳng bằng hai tướng.
c) Huệ Nhãn.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như
Lai hữu huệ nhãn bất? Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu huệ nhãn.
Dùng căn bản trí, chiếu soi Chơn lý.
d. Pháp Nhãn.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như
Lai hữu pháp nhãn bất?
Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu
pháp nhãn.
Hậu Đắc Trí, thuyết pháp độ người. e. Phật
Nhãn.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như
Lai hữu Phật nhãn bất? Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu Phật nhãn
Bốn Nhãn trên, ở tại Phật thì gọi chung
là Phật Nhãn. Lại nữa, thấy Phật Tính viên cực, gọi đó là Phật Nhãn.
Ngài Vô Trước nói: Vì để khiến cho Tri
kiến được tịnh thắng cho nên hiển thị có năm loại Nhãn, lược nói thì có bốn loại;
Đó là Sắc nhiếp Đệ Nhất Đế, nhiếp Thế Đế, nhiếp Nhất thiết chủng, nhiếp nhất
thiết ưng tri.
Cổ Đức kệ rằng: “Thiên Nhãn thông chẳng
ngại, Nhục Nhãn ngại chẳng thông, pháp Nhãn chỉ quán tục, Huệ Nhãn duyên thẳng
không, Phật Nhãn như ngôn (mặt) trời, soi khác thể hoàn đồng”.
2. Dựa theo chư tâm sở tri
mà tỏ rằng Trí Tịnh. Có năm phần:
1/ Theo Số cát một con sông Hằng Hà.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như hằng
hà trung sở hữu Sa, Phật thuyết thị sa bát? Như thị, Thế Tôn! Như Lai, Thế Tôn!
Như Lai thuyết thị sa
2/ Dựa theo số sông bằng số cát trong một
con sông Hằng Hà.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Như nhất
hằng hà trung sở Hữu sa, hữu như thị sa đẳng hằng hà.
3/ Dựa theo số giới bằng số cát trong hằng
sa con sông.
Thị chư hằng hà sở hữu sa số
Phật thế giới, Như Thị ninh vi đa bất? Thậm đa, Thế Tôn!
4/ Lấy theo toàn bộ những chúng sanh
trong những thế giới đó.
Phật cáo Tu Bồ-đề: nhỉ sở quốc
thổ trung sở hữu chúng sanh.
5/ Dựa theo toàn bộ những tâm của mỗi một
chúng sanh. Có hai phần.
– Tỏ chung về Tịnh và Nhiễm để tỏ rằng
thảy đều biết.
Nhược can chủng tâm, Như Lai
tất tri.
Ngài Vô Trước nói: “Nhược can chủng
tâm”; là có hai loại; đó là Nhiễm và Tịnh,tức là cộng dục tâm, ly dục tâm.
– Hội vọng quy Chơn để giải thích “Tất
tri”.
Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư
tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm.
Kinh Đại Vân nói: Do tất cả vọng tâm nương
vào Thể của Chơn Như, đều không có Tính của chúng. Vì Phật chứng Chơn như, cho
nên thảy đều biết chúng.
“Chư tâm”; là nêu ra, chỉ ra.
“Phi tâm”; là vọng Thức vốn không.
“Thị Danh Tâm”: là Chơn tâm bất diệt.
Nếu theo bổn luận giải thích thì khác với
ở đây.
Kệ rằng: “Nhiều loại điên đảo thức, bởi
lìa khỏi Thật niệm, chẳng trú Thật Trí kia, do vậy gọi điên đảo”.
3. Suy phá tạp nhiễm để giải
thích “Phi tâm”
Sở dĩ a giả hà? Tu Bồ-đề!
Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
Ngài Vô Trước nói: Vì quá khứ thì đã diệt,
vị lai thì chưa có, hiện tại thì Đệ Nhất Nghĩa.
16. Đoạn Mối Nghi: Phước Đức Ví Cho Tâm
Điên Đảo
Luận nói: Phần trên nói tâm trú, điên đảo
đều bất khả đắc. Nếu như vậy thì phước đức cũng là điên đảo, sao lại gọi là Thiện
pháp?
Đoạn nghi này, văn có hai phần.
a) Hỏi phước đáp phước.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Nhược
hữu nhơn mạn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhơn dĩ
thị nhân duyên, đắc phước đa bất? Như thị, Thế Tôn! Thử nhơn dĩ thị nhân duyên
đắc phước thậm đa.
Vì đây là Nhân duyên hành Bố thí bằng
tâm ly tướng không có điên đảo này thì sẽ thành vô lậu phước đức, lìa khỏi hai
chướng, đã chẳng phải điên đảo, cho nên đắc phước nhiều.
b) Phản giải thích, thuận giải
thích.
Tu Bồ-đề! nhược phước đức hữu
thật, Như Lai bất thuyết đắc phước đức đa, dĩ phước đức vô cố, như lai thuyết đắc
phước đức đa Kệ rằng: “Phật trí Huệ làm gốc,
phi điên đảo công đức”.
Luận nói: Hiển thị rằng phước chẳng phải
là điên đảo, bởi vì Phật trí làm gốc.
“Phước Hữu”; là thủ tướng.
“Phước vô”; là ly tướng.
Hỏi: Bởi Tính của phước là không, cho
nên phước nhiều; phần trên nói rằng tính của vọng tâm là không, thế thì đúng phải
Vọng cũng nhiều chứ?
Đáp: Phước lấy Phật Trí làm gốc, vì thuận
với Tính Không, ngộ tính không thì phước rất nhiều. Còn tâm Thức là điên đảo,
vì trái với tính không, ngộ tính không thì tâm thức đều tận.
17. Đoạn Mối Nghi: Vô Vi Sao Có Tướng Hảo?
Luận nói: Nếu chư Phật nhờ vô vi pháp mà
đắc danh thì làm sao chư Phật thành tựu tướng hảo mà gọi là Phật? Đâp là vì dựa
theo pháp thân Phật mà thành ra nghi. Đoạn nghi này, văn có hai phần:
a) Do từ vô thân mà hiện
thân
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Phật
khả dĩ cụ túc sắc thân kiến bất? Bất dả, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc,
thân kiến. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết cụ túc sắc thân, tức phi cụ túc sắc thân,
thị danh cụ túc sắc thân.Tức là tùy hình hảo. Cũng như trong gương không có vật
mới có thể hiện vật.
Luận nói: pháp thân rốt ráo chẳng phải sắc
thân, chẳng phải chư tướng, mà tướng hảo hai loại cũng chẳng phải Phật, vì hai
thứ này chẳng lìa pháp thân. Vì vậy hai thứ này cũng có thể nói là “vô”, cho
nên nói là “phi thân”, cũng có thể nói là “Hữu”, cho nên nói là “thành tựu”.
b) Do vô tướng mà hiện tướng
Tu Bồ-đề! ư ý vân hà? Như
Lai khả dĩ cụ túc chư tướng bất? Bất dả. Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư
tướng kiến. hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh
chư tướng cụ túc.
Tức là ba mươi hai tướng. Mỗi một tướng
đều như nói trong phần Sắc thân ở tâm.
18. Đoạn Mối Nghi: Vô Thân thì lấy gì để
thuyết pháp.
Luận nói: Nếu Như Lai sắc thân tướng hảo
chẳng thể thấy được, thì sao lại nói là Như Lai thuyết pháp? Đoạn nghi này, văn
có ba phần:
a) Ngăn chặn hiểu sai
Tu Bồ-đề! Nhữ vật vị Như Lai
tác thị niệm: “Ngã đương hữu sở thuyết pháp” mạc tác thị niệm.
Trong thung lủng không có người nhưng lại
có thể phát ra âm thanh.
b) Giải thích nguyên do.
Hà dĩ cố? Nhược nhơn ngôn
như lai hữu sở thuyết Pháp, tức vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố.
Thế Tôn đạt chư pháp không, rốt ráo vô
chấp, nay nói Hữu thuyết là báng Phật chấp pháp.
c) Bày chánh kiến.
Tu Bồ-đề! Thuyết pháp giả;
vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp.
Kệ rằng: “Như Phật pháp cũng vậy, Sở
thuyết hai sai biệt, chẳng lìa khỏi pháp giới, thuyết pháp vô tự tướng”.
Kinh Đại Vân nói: Nếu nói vô thuyết là
Chơn thuyết pháp, nếu nói Hữu thuyết chẳng gọi là thuyết pháp, đó là báng Phật.
19. Đoạn mối nghi: Vô pháp thì làm sao
tu chứng?
Luận nói: Như Lai bất đắc một pháp thì
làm sao ly thượng, thượng chứng chuyển, chuyển đắc A nậu Bồ-đề? Vì để đoạn nghi
này, thị hiện phi chứng pháp, gọi là A nậu Bồ-đề.
Đoạn nghi này, văn có ba phần:
a) Lấy vô pháp làm chánh
giác.
Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế
Tôn, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề vi vô sở đắc đa? Phật ngôn: như thị,
như thị, Tu Bồ-đề! Ngã ư nậu đa la tam miệu tam Bồ-đề, nãi chí vô hữu thiểu
pháp khả đắc, thị danh A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ-đề.
Kệ rằng: “Chỗ kia không tí pháp, biết Bồ-đề
vô thượng”.
Luận nói: Nơi Bồ-đề kia, không có một
pháp nào để có thể chứng, danh là A Nậu Bồ-đề.
b) Lấy bình đẳng làm giác.
Phục thứ, Tu Bồ-đề! Thị bình
đẳng pháp, vô hữu cao hạ, thị danh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
Kệ rằng: “Pháp giới chẳng tăng giảm”.
Luận nói: Vì pháp ấy là bình đẳng nên gọi
là Vô thượng, bởi vì không có gì trên nữa.
c) Dùng chánh trợ để tu
chánh giác.
Do vô ngã, vô nhơn, vô chúng
sanh, vô thọ giả tu nhất thiết thiện pháp tắc đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề.
Tu Bồ-đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh
thiện pháp.
“Vô ngã,…”: là liểu Nhân, là hiểu nhân,
là hết Nhân tức là Chánh Đạo. “Tu tất cả Thiện pháp”: là Duyên Nhân, tức là trợ
(giúp) đạo.
“Tức đắc A Nậu Bồ-đề ”, là chánh giác.
“Sở ngôn Thiện pháp”: là nêu ra ngón tay
chỉ.
“Tức phi …”: Luận nói: Pháp kia không có
Hữu lậu pháp, cho nên gọi là “Phi thiện pháp”… vì có Vô lậu pháp, nếu gọi là
“Thiện pháp”.
20. Đoạn Mối Nghi Những Điều Đã Thuyết
là vô ký, chẳng phải là Nhân.
Luận nói: Nếu người tu tất cả thiện pháp
mới đắc A Nậu Bồ-đề thì pháp sở thuyết chẳng thể đắc Bồ-đề. Vì đó là pháp vô
ký. Đoạn rằng:
Tu Bồ-đề! Nhược tam thiên đại
thiên thế giới trung sở hữu chư Tu Di Sơn Vương, như thị đẳng thất bảo tự, hữu
nhơn trì dụng bố thí, nhược nhơn dĩ thử Bát-nhã ba-la-mật kinh, nải chí tứ cú kệ
đẳng, thọ trì đọc tụng, vi tha nhơn thuyết, ư tiền phước đức, bách phần bất cập
nhất, bách thiên vạn ức phần, nải chí toán số thí dụ sở bất năng cập. Kệ rằng:
“Lời là pháp vô ký, nhưng nói là Nhân kia, do vậy một pháp bảo, hơn vô lượng
trân bảo”.
Luận nói: Bởi vì lìa khỏi pháp sở thuyết
thì chẳng thể đắc Đại Bồđề, pháp này có thể làm Nhân cho Bồ-đề. Lại nói: Pháp
ông là vô ký, nhưng pháp ta là ký. Do vậy hơn hẳn bố thí vô lượng thất bảo.
21. Đoạn Mối Nghi: Bình Đẳng thì làm sao
độ chúng sanh.
Luận nói: Nếu pháp là bình đẳng, không
có cao thấp thì làm sao Như Lai độ chúng sanh?
1. Ngăn chặn hiểu sai
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Nhữ đẳng
vật vi: Như Lai tác thị niệm; Ngã đương độ chúng sanh, Tu Bồ-đề! Mạc tác thị niệm.
2. Bày tỏ chánh kiến.
Hà dĩ cố? Thật vô hữu chúng
sanh Như Lai độ giả.
Kệ rằng:
“Bình đẳng Chơn pháp giới,
Phật chẳng độ chúng sanh,
Bởi Danh cùng Ấm kia,
Chẳng lìa khỏi pháp giới”.
Luận nói: Chúng sanh giả Danh, cùng
chung với Ngũ Ấm, chẳng lìa pháp giới.
3. Phản giải thích nguyên do.
Nhược hữu chúng sanh Như Lai
độ giả, Như Lai tắc hữu ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Luận nói: Nếu Như Lai có tâm như vậy thì
trong Ngũ Ấm có chúng sanh để độ, đó là lỗi thủ tướng.
Ngài Vô Trước nói: Như Lai như Nhĩ Viêm
mà tri, do vậy nếu có chúng sanh tưởng thì đó là Hữu Ngã thủ.
4. Triển chuyển phủi Tích.
Tu Bồ-đề! Như Lai thuyết hữu
ngã giả, tắc phi hữu ngã. Nhi phàm phu chi nhơn dĩ vi hữu ngã. Tu Bồ-đề! Phàm
phu giả Như Lai thuyết tắc phi phàm phu.
22. Đoạn nghi: dùng tướng so với chơn Phật.
Luận nói: Tuy tướng thành tựu, chẳng thể
thấy được Như Lai nhưng vì thấy tướng thành tựu, tỉ trí (trí so sánh) thì biết
Như Lai pháp thân.
Đoạn nghi này, văn có năm phần:
a) Hỏi: Dùng tướng để biểu
cho Phật.
Tu Bồ-đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ
tam thập nhị tướng quán Như Lai bất?
b) Đáp: Nhân ở mầm non mà biết
căn rể.
Tu Bồ-đề ngôn: Như thị, như
thị, dĩ tam thập nhị tướng quán Như Lai.
Kinh Đại Vân nói: Trên kia là ngộ sắc
thân, ở đây là mê pháp thân, ý cho rằng pháp thân đã chảy ra sắc thân, tức là
do từ tướng đó mà biết Phật chứng đắc vô tướng pháp thân.
c) Nạn vấn: phàm và Thánh chẳng
phân rõ.
Phật ngôn: Tu Bồ-đề! Nhược
do tam thập nhị tướng quán Như Lai giả, Chuyển Luân Thánh Vương tắc thị
Như Lai.
Kệ nói: “Chẳng phải tướng sắc thân, so
biết được Như Lai, chư Phật duy pháp thân, Chuyển Luân Vương chẳng Phật.
d) Ngộ Phật chẳng phải là thấy
bằng tướng.
Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế
Tôn! Như ngả giải Phật sở thuyết nghĩa; bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quán Như
Lai.
e) Thấy và nghe chẳng đạt đến.
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết
kệ ngôn: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất
năng kiến Như Lai.
Bản dịch đời Ngụy thêm sau kệ rằng: “Kia
Như Lai Diệu Thể, tức pháp thân chư Phật, pháp thân chẳng thể thấy, thức kia chẳng
thể biết”.
Kệ rằng: “Chỉ thấy sắc nghe thanh, người
ấy chẳng biết pháp”.
Vì Chơn Như pháp thân, chẳng phải cảnh của
Thức?
Ngài Vô Trước nói: Vì pháp kia là tướng
của Chơn Như, chẳng phải như mà biết, duy chỉ tự mình chứng tri.
23. Đoạn Nghi: Quả Phật chẳng liên quan
gì với tướng của phước.
Do từ phần trên, dùng tướng để so với
pháp thân là thất. Lại nghe nói dùng sắc để thấy, thanh để cầu là tà, bèn nghĩ
rằng: quả Phật nhất định vẫn là vô tướng vô vi, nếu vậy thì tu cái Nhân của phước
đức chỉ thành cái quả của tướng. Quả tướng đã chẳng phải quả Phật, quả Phật ắt
chẳng nhờ tướng đủ mà đắc, thế thì quả Phật rốt cùng chẳng có liên quan gì với
tướng của phước.
Vì vậy mà luận nói: có người khởi tâm
như vầy; nếu chẳng nương theo phước Đức để đắc Đại Bồ-đề, như vậy chư đại Bồ-tát
ắt đã mất phước Đức, và mất quả báo.
Đoạn nghi này, văn gồm tướng.
Tu Bồ-đề! Như nhược tác thị
niệm: “Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề. Tu Bồ-đề!
Mạc tác thị niệm: “Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ-đề”.
1. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Sắc thân chẳng
phải Phật, âm thanh cũng lại vậy, cũng chẳng lìa Sắc thanh, thấy Phật thần
thông lược”.
Triệu (ngài Tăng triệu) nói: Vì chẳng
riêng chỉ tại sắc thanh, cho nên nói là “Phi”, vì chẳng phải chẳng thân tướng,
cho nên nói là “Thị”.
Đại vân nói: Nếu nói rằng Như Lai chẳng
dùng tướng cụ túc, đó là Đoạn diệt kiến. Cho nên Phật ngăn cấm rằng: “Mạc tác
thị niệm” (đừng nghĩ như thế”.
2. Xuất cái lỗi huy tướng.
Tu Bồ-đề! Nhũ nhược tác thị
niệm: “Phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ-đề tâm giả, thuyết Chư pháp đoạn diệt.
mạc tác thị niệm. Hủy bỏ tướng ắt rơi vào Đoạn Diệt, Đoạn Diệt là bị tổn giảm,
bị lỗi Đoạn kiến, biên kiến.
3. Tỏ rõ rằng phước tướng chẳng
thất.
Hà dĩ cố? Phát A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ-đề tâm giả, ư pháp bất thuyết đoạn diệt tướng.
Ngài Vô Trước nói: “Ư Pháp Bất Thuyết Đoạn
Diệt”, nghĩa là như pháp sở trú mà thông đạt, chẳng đoạn dứt tất cả những pháp
hình bóng sinh tử, hành một cách tự tại ở Niết-bàn, làm những lợi ích chúng
sanh. Trong đây, vì để ngăn chặn một mực tịch tịnh tĩnh vắng lặng, mà hiển thị
bất trú Niết-bàn.
Kệ nói: “Chẳng mất nhân công đức, và quả
vượt trội kia”.
Luận nói: Tuy chẳng nương phước đức mà đắc
Chơn Bồ-đề nhưng chẳng mất phước đức và quả báo kia. Bởi chúng có thể thành tựu
trí Huệ trang nghiêm và công đức trang nghiêm.
4. Tỏ rõ nguyên do chẳng mất.
a) Vì Đắc Nhẫn nên chẳng mất.
Tu Bồ-đề! Nhược Bồ-tát dĩ
mãn bằng hà sa đẳng thế giới thất bảo bố thí, nhược phục hữu nhơn tri nhất thiết
pháp vô ngã, đắc thành ư nhẫn, thử Bồ-tát thắng tiền Bồ-tát sở đắc công đức.
“Vô ngã”: là hai loại Vô Ngã.
b) Vì bất thọ nên chẳng mất. Có hai phần:-•
Chánh tỏ rõ.
Tu Bồ-đề! Dĩ Chư Bồ-tát bất
thọ phước đức cố.
Luận nói: Vì phước đức kia đắc quả báo Hữu
lậu, cho nên đáng để rách.
Ngài Vô trước nói: Đây là hiển thị chẳng
trước dính sinh tử. Nếu trú sinh tử tức là thọ nhận phước đức.
– Trưng hỏi, giải thích.
Tu Bồ-đề bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn! Vân hà Bồ-tát bất thọ phước đức?”. Tu Bồ-đề! Bồ-tát sở tác phước đức, bất
ưng tham trước, thị cố thuyết bất thọ phước đức.
24. Đoạn Nghi: Hóa Thân Xuất Hiện, Thọ
Nhận Phước.
Luận nói: Nếu chư Bồ-tát chẳng thọ
phuoc1 Đức thì làm sao
phước đức của Bồ-tát, chúng sanh lại thọ
dụng.
Đoạn nghi này, văn có hai phần:
1. Trách Hiểu Sai.
Tu Bồ-đề! Nhược hữu nhơn
ngôn: “Như Lai nhược lai nhược khứ, nhược tọa nhược ngọa”. Thị nhơn bất giải
ngã sở thuyết nghĩa.
Kệ rằng:
“Phước Đức ứng báo này,
Là để hóa chúng sanh,
Tự nhiên nghiệp như vậy,
Chư Phật hiện mười phương”.
2. Tỏ bày chánh kiến.
Hà dĩ cố? Như Lai giả; vô sở
tòng lai, diệc vô sở khứ. Cố danh Như Lai.
Kệ rằng:
“Khứ Lai Hóa Thân Phật,
Như Lai thường bất động”.
Đại vân nói: “Nước tam chúng sanh nếu
trong sạch thì thấy Phật đến (Lai), đến chẳng từ đâu. Nước tâm đục thì thấy Phật
thị diệt giữa Song lâm (giữa hai cây Sa La) thì nói là “Phật khứ” (Phật đi, Phật
mất, Phật Niết-bàn, Phật diệt), đi không chỗ đến.
Ngài Tăng triệu nói: Giải hiểu cùng cực
thì hội với Như, Thể của Như thì không có phương chốn. Duyên đến thì vật hiện,
chẳng từ đâu đến. Cảm hết thì ẩn mất, cũng chẳng đi về đâu.
25. Đoạn Nghi: Pháp Thân Và Hóa Thân Có
Khác Nhau.
Theo phần trên, chẳng thể bằng Hóa tướng
này mà biết pháp thân, pháp thân không có Đến, đi, ngồi, nằm, thế thì tựa như
là Chơn Thân và Hóa thân là khác nhau. Rồi căn cứ theo phần ngăn chặn niệm đoạn
diệt, rồi nói rõ rằng chẳng mất phước tướng, thế thì tựa như là Chơn Thân và
hóa thân là cùng một như nhau. Vì vậy mà thành ra nghi. Phần này là dựa theo vi
Trần thế giới để giải thích nghĩa phi Nhất phi Dị, để đoạn dứt mối nghi này, văn
có hai phần:
1. Dựa Theo Trần và Giới mà
phá Nhất và Dịch: gồm năm phần:
a. Tế Mạc phương tiện phá Thân Sắc.
Tu Bồ-đề! Nhược Thiện nam tử,
Thiện nữ nhơn, dĩ tam thiên đại thiên thế giới, toái vi vi trần, ư ý vân hà?
Thi vi trần chúng ninh vi đa bất? Thậm đa, Thế Tôn!
Kệ rằng:
“Ở pháp giới xứ này.
Phi nhất cũng phi Dị”.
Luận nói: Chư Phật Như Lai kia, ở trong
Chơn Như pháp giới, chẳng trú cùng một xứ, cũng chẳng trú khác xứ, để tỏ rõ
nghĩa này mà nói về Thế giới vụn tan thành vi trần. Cho nên:
Kệ nói:
“Thế gới thành vi trần,
Dụ này tỏ nghĩa kia”.
Ngài Vô Trước nói: Vì để phá Danh sắc
Thân mà nói về Trần và giới. Trong đó, phương tiện tế mạc và phương tiện vô sở
kiến, câu “Vi trần rất nhiều”; là phương tiện tế mạc.
Đại Vân nói: tức là tánh hạt vi trần đến
mức cực kỳ tế mạc cực nhỏ, dùng phương tiện này mà phá những sắc thô vậy. “Vi
trần” Ở đây là dựa theo Đại thừa Tông. Ở một khối Sắc, giả tưởng chia tách ra đến
cực lược sắc, đó là trần. Chẳng phải là “Thật Trần” của Tiểu Thừa Tông.
b. Bất niệm phương tiện phá vi trần.
Hà dĩ cố? Nhược thị vi trần
chúng thật hữu gả, Phật tắc bất thuyết thị vi trần chúng. Sở dĩ giả hà? Phật
thuyết vi trần chúng, tắc phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng.
Luận nói: Trần vụn thành mạt, cho nên chẳng
phải cùng một xứ, một chỗ. Tràn chúng tụ lại, cho nên chẳng phải khác xứ, chẳng
trú khác xứ.
Lại nữa, “Nếu trần chúng thật có”; thì
Thế gian phàm phu cũng đều tự biết,c ần gì Phật nói ra. Chỉ vì chẳng biết Thể,
chẳng thành tựu, nên Phật mới nói ra vậy. Cho nên Ngài Vô trước nói: Thế Tôn
nói “phi”; là vì Thể của tụ này chẳng thành tựu, nếu khác với đó thì Phật tuy
chẳng nói ra cũng tự biết đó là Tụ.
c. Bất niệm phương tiện phá thế giới.
Thế Tôn! Như Lai sở thuyết
tam thiện đại thiên thế giới, tắc phi thế giới, thị danh thế giới.
Bổn luận phá Thế giới bằng nghĩa chẳng
thật, có thể biết vậy.
Ngài Vô Trước nói: Đây là phá thế giới
danh thân; là thế giới chúng sanh.
d. Dựa cả trần và Giới để phá Hòa Hợp.
Hà dĩ cố! Nhược thế giới thật
hữu giả, tắc thị nhất hợp tướng, như lai thuyết nhất hợp tướng, tắc phi nhất hợp
tướng, thị danh nhất hợp tướng.
Luận nói: Nếu thật có một thế giới, Như
Lai ắt chẳng nói Tam Thiên giới.
Đại Vân nói: Nếu thật có một thế giới
thì đúng là một, một Hòa Hợp vậy, thế thì có nhiều sai biệt với bất Hợp. Nay Phật
nói Tam Thiên chứng tỏ rằng chẳng đúng là một vậy, do vậy dựa theo tam thiên (
ba ngàn) mê phá một giới.
Ngài Vô Trước nói: Vì để ghép nói hoặc
thế giới hoặc vi trần giới, cho nên có hai loại đoàn thủ (Đoàn; là cục tròn),
đó là Nhất Đoàn thủ và sai biệt Đoàn thủ.
Đại Vân nói: Đây ý nói rằng Trần chúng
và loài chúng sanh đều gọi là Thế giới.
“Nhất Hợp Tướng”; tức là Đoàn thủ, đoàn
thủ thành một, cho nên nói là “Hòa Hợp”. Nhất Hợp này có hai Đoàn Thủ: 1. Nhất
Đoàn Thủ; tức là Thế giới hòa hợp làm một; 2. Sai biệt Đoàn thủ. Tức là vi trần
có rất nhiều cực vi, gọi đó là sai biệt.
“Phi Nhất Hợp”; là trong đệ nhất nghĩa,
hai giới không có thật. e. Phật ấn, trong Vô mà vọng chấp Hữu.
Tu Bồ-đề! Nhất hợp tướng tắc
thị bất khả thuyết, đản phàm phu chi nhơn tham trước kỳ sự.
Luận nói: Bởi tu tập kia không có vật để
có thể thủ, vì hư vọng phân biệt, cho nên nói là “vọng thủ”. Nếu đó có thật, tức
là chánh kiến.
Ngài Vô trước nói: Thế Đế thì nói là
Đoàn Thủ, Đệ nhất nghĩa Đế thì bất khả thuyết. Phàm phu trẻ con kia như lời mà
nói Thủ.
Đại vân nói: chấp thấy ngũ uẩn, thủ sự
hòa hợp của chúng, đó là Tham trước sự, mê với sự pháp, khởi phiền não vậy.
2. Dựa theo chỉ quán phá
Ngã, pháp. Có hai phần:
a. Trừ Ngã chấp. Có hai phần:
– Bác hiểu sai.
Tu Bồ-đề! Nhược nhơn ngôn:
“Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”. Tu Bồ-đề! Ư ý
vân hà? Thị thực giải ngã sở thuyết nghĩa bất? Thế tôn! Thị nhơn bất giải như
lai sở thuyết nghĩa.
– Trừ chấp lời.
Hà dĩ cố! Thế Tôn thuyết ngã
kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kến, tắc phi ngã kiến, như kiến chúng
sanh kến thọ giả kiến, thị danh ngã kiến nhơn kiến chúng sanh kiến thọ giả kiến.
Luận nói: Ngã kiến hư vọng phân biệt, Phật
thuyết tức là bất kiến.
Ngài Vô trước nói: Đây là hiển thị, như
sở bất phân biệt. vì sao hiểu thị Như? Ngoại Đạo nói Ngã, Như Lai thuyết đó là
Ngã kiến, đặt ra Nhơn vô Ngã. Lại nữa, vì để nói rằng có Ngã kiến này mà đặt ra
pháp vô ngã, cứ như vậy mà quán sát, khi Bồ-tát nập vào tam muội tương ưng, chẳng
còn phân biệt nữa, tức ngay quán sát này làm phương tiện nhập.
b. Trừ pháp chấp. Có hai phần:
– Trừ phân biệt.
Tu Bồ-đề! Phát A Nậu Đa La
Tam Miệu Ttam Bồ-đề tâm giả, ư nhất thiết pháp, ưng như thị tri, như thị kiến,
như thị tín giải, bất sinh pháp tướng.
Ngài Vô Trước nói: Đây là hiển thị người
nào vô phân biệt, với pháp nào bất phân biệt, phương tiện gì bất phân biệt.
Đây là hiển thị tâm tăng thượng, trí
tăng thượng; tri và kiến thắng giải ở trong Vô phân biệt.
Ở trong ấy, nếu Trí y chỉ vào Xa Ma Tha
thì Tri, nếu Trí y chỉ vào Tỳ Bát Xá Na thì kiền. Tri và kiến này y chỉ vào Tam
Ma Đề thì thắng giải. Bởi vì Tam Ma Đề tự tại, giải những hình bóng phân duyên ở
bên trong, cho nên gọi là Thắng giải.
Thế nào là vô phân biệt? đây là chánh hiển
vô phân biệt. đại Vân nói: những phương tiện trước là Trí gia Hạnh. Nay Bất
phân biệt là Trí căn bản, tức là chính mình chứng Chơn Như, ly Năng thủ và sở
thủ, gọi đó là Bất Phân Biệt.
– Hiển Bổn Tịch.
Tu Bồ-đề! Sở ngôn pháp tướng
giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng.
Ngài Vô Trước nói: Đây là hiển thị nghĩa
bất cộng và nghĩa tương ưng trong pháp tướng, như trên đã nói:
26. Đoạn Nghi Hóa Thân Thuyết Pháp Vô
Phước.
Vì nghe Chơn thân và Hóa thân phi nhất
phi Dị, ý cho rằng: Nếu dựa theo phi nhất thì Hóa thân chỉ là hư giả. Nếu dựa
theo phi dị thì lại ngầm hợp quy về cùng một, pháp thân tức Hóa thân, rốt cuộc
không có tự thể. Nếu vậy thì thọ trì, diễn thuyết pháp thuyết sẽ không có phước
đức.
Đoạn mối nghi này, văn có hai phần:
1. Công đức thuyết pháp.
Tu Bồ-đề! Nhược hữu mãn vô
lượng a tăng kỳ thế giới thất bảo trì dụng bố thí. nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhơn phát Bồ-tát tâm giả, trì ư thử kinh nải chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì
đọc tụng, vị nhơn diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ?
Kệ nói: “Hóa thân thị hiện phước, phi vô
tâm phước”.
Luận nói: Tuy chư Phật tự nhiên Hóa thân
tác nghiệp nhưng chư Phật kia hóa thân thuyết pháp, có vô lượng vô tận vô lậu
công đức.
2. Thuyết pháp bất nhiễm.
Vân hà vị nhơn diển thuyết?
Bất thủ ư tướng, như như bất động. Vân hà vị nhơn diển thuyết? Bất thủ ư tướng,
như như bất động.
Ngài Vô Trước nói: Đó là thuyết pháp bất
nhiễm. Vì có lợi ích lớn như vậy, cho nên quyết định diễn thuyết, diển thuyết
như thế thì không bị nhiễm.
“Vân hà diễn thuyết…”, là hiển thị chẳng
thể dùng lời mà nói. Nếu khác với đó, tức là bị nhiễm mà thuyết, bởi vì đó là
nghĩa điên đảo. Lại nữa, khi thuyết chẳng mong cầu được tin kính,… cũng là vô
nhiễm thuyết pháp….
Đại Vân nói: Nếu có thể chẳng bằng tâm
hành sinh diệt mà thuyết Thật tướng thì giống như Chơn Như kia, cho nên nói là
“Như Như”. Lại nữa, Tâm Như, Cảnh Như, cho nên nói là “Như Như”.
“Bất động” tức nghĩa là Vô nhiễm.
27. Đoạn Mối Nghi nhập tịch thì làm sao
thuyết pháp?
Luận nói: Nếu chư Phật Như Lai thướng vì
chúng sanh thuyết pháp thì sao lại nói rằng Như Lai Nhập Niết-bàn?
Đoạn là:
Hà dĩ cố? Nhất thiết hữu vi
pháp, như mộng huyển bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.
Giải thích văn này, có ba phần:
1. Dựa theo hai Luận giải
thích:
Trong bản đời Ngụy, có chín dụ, bản Ngụy
dịch rằng: “Nhất Thiết Hữu Vi Pháp, như tinh tế Đăng Huyển, Lộ bào Mộng Điện
Vân, ưng tác Như Thị quán”.
Trong phần này, có hai phần:
a) Dựa theo phần đoạn nghi của Bổn luận:Kệ
nói:
“Phi Hữu Vi, Phi Ly.
Chư Như Lai Niết-bàn.
Cửu chủng Hữu vi pháp,
Diệu Trí chánh quán cố”.
Luận nói: Chư Phật đắc Niết-bàn, hóa
thân thuyết pháp cho nên là “Phi Hữu Vi”, “Phi ly” Hữu vi. Vì sao thị hiện thế
gian mà lại chẳng rú Hữu vi, do nhờ Diệu trí chánh quán, Hữu vi là hư giả giống
như chín dụ trên.
b) Kiêm cả phần giải thích về tướng của
ngài Vô Trước:
Ngài Vô Trước nói: bài kệ này hiển thị bốn
tướng Hữu vi, văn có bốn phần:
– Tự Tính Tướng: Kiến và tướng này, dùng Thức làm Thể, là căn gốc sinh
tử. Văn có ba phần:
+ Tinh (sao đêm): Là dụ cho kiến. Ngài
Vô trước nói: Vô trí, trong bóng tối thì có ánh sáng kia, có Trí trong sáng sủa
thì không có ánh sáng kia.
+ Ế (mắt màng): là dụ cho tướng. Luận
nói: như mắt bị màng thì thấy những sắc vòng tơ… quán Hữu vi pháp cũng giống vậy,
vì kiến điên đảo. Ngài Vô trước nói: Nhơn pháp Ngã kiến giống như mắt màng, vì
thủ vô nghĩa.
+ Đăng (ngọn lửa đèn): Là dụ cho Thức.
Đèn là dựa theo cao dầu tương tục nhau chẳng dứt tuyệt. Thức nương dựa theo
Tham Ái mà sinh tử không ngừng nghĩ.
– Trước sở trú vị tướng: (Tướng trước dính vào sở trú).
Luận nói: Huyển là dụ cho nơi chốn y
trú. Vì những đồ vật thế gian nhiều thứ khác nhau, không có mọt Thể nào là thật.
Ngài Vô Trước nói: Bởi đắm dính vào cảnh điên đảo. Đại Vân nói: Huyển ảo xuất
ra thành quách lừa dối con người, Thức biến núi sông chẳng thật.
– Tùy Thuận quá thất tướng:
Tự thân và thọ dụng là quá thất, quán
chúng vô thường, gọi là Tùy Thuận. Lại có giải thích rằng: Tùy thuận thân và thọ,
tức là quá thất. Văn có hai phần:
+ Lộ (giọt sương); dụ cho Thân. Luận
nói: Thân cũng giống như giọt sương mai vậy, chỉ trụ được một thời gian ngắn ngủi.
+ Bào (bọt nước); dụ cho Thọ. Luận nói:
Những sự mình thọ dụng cũng giống như bọt nước vậy, bởi vì ba pháp: Thọ, Tưởng,
Nhân chẳng nhất định. Ngài Vô Trước nói: quán sát Thọ (tuổi thọ?) như bọt nước;
hoặc khi bắt đầu sinh hoặc chưa thành Thể, hoặc mới vui sinh, hoặc tạm đình
trú, liền quy về tàn diệt.
– Tùy thuận xuất lu tướng:
Ngài Vô trước nói: Tùy thuận Nhơn và
pháp vô ngã mà đắc xuất ly. Văn có ba phần:
+ Mộng: là dụ cho quá khứ. Ngài Vô trước
nói: quá khứ kia đi vào chỗ nghĩ nhớ, cho nên giống như giấc mơ. Luận nói: Nêu
quán quá khứ tất cả những tập giống như cảnh mộng, vì chỉ là tính nhớ. Công đức
Thí nói: Quán sát giả như trong mộng theo với cảnh thấy nghe. Vì niệm phân biệt,
huân tập mà trú, tuy không có tác giả, nhiều thứ ánh giới hiện tiền rõ ràng,
cũng giống như vậy, chúng sanh từ vô thủy đến nay, có những phiền não, thiện và
bất thiện nghiệp, huân tập mà trú. Tuy vô nga là Năng tác giản nhưng hiện ra những
sự việc sinh tử không có bến bờ.
+ Điện (ánh chớp) dụ cho hiện tại. Luận
nói: bởi sát na chẳng trú. Công Đức Thí nói: Quán sát tâm giống như ánh điện chớp
khi sinh liền diệt.
+ Mây dụ cho vị lai. Vì khi chủng tử, A
Lê Da Thức làm chủng tử căn bản cho tất cả pháp. Ngài Vô Trước nói: Chủng tử
thô xấu kia giống như hư không bầu trời, dẫn tâm xuất ra, cho nên như mây.
Ngài Vô Trước nói: Cứ như vậy mà biết
Tam Thế hành (tâm hành ba thế, quá khứ, hiện tại, vị lai) thì đặt vô ngã, đó là
hiển thị Tùy thuận xuất ly tướng.
Đại Vân nói: Quá khứ, vị lai vô thể, hiện
tại lại bất trú thì ba đời không, đạt vô ngã vậy.
2. Dựa theo chư kinh tỏ rõ
các hư giả làm đại ý của Dụ.
Phật nói tất cả pháp không. Nghi rằng:
Sao lại hện thấy tất cả ảnh giới? Vì vậy mà thuyết là Như huyển. Pháp huyển tuy
không rõ ràng để có thể thấy. Lại nghi rằng: pháp Huyển đã không có người thì
làm so Ái trước? Vì vậy mà thuyết như dương diểm; con nai khát nước, cho đó là
nước, Ái trước mà chạy đến. Lại nghi rằng: Con nai khát nước, rốt cuộc chẳng được
nước, còn người tham sao lại đều được thọ dụng? Cho nên nói là Như Mộng. Những
điều thấy trong mộng cũng được thọ dụng. Lại nghi rằng: Mộng tạo thiện Ác, tỉnh
giấc chẳng có nghiệp báo, mộng đánh tôn trướng tỉnh giấc rồi chẳng có lo sợ.
Cho nên nói là như ảnh, như hưởng (như bóng, như tiếng vang). Tuy hoàn toàn
không có Thể, nhưng gương sáng đối sắc hang rổng đối thanh, xấu đẹp cao thấp mỗi
mỗi đều ứng, ắt không tạp loạn, ắt không sai khác. Lại nghi rằng: Khổ đều không
thật, Bồ-tát sao lại làm việc lợi lạc? Cho nên nói là như Hóa. nghĩa là biến
hóa, tuy biết chẳng thật mà hóa sự.
3. Hội thông với bản kinh dịch
đời Tần:
Mộng, Huyển, Bào, Ảnh, hoàn toàn rõ lý
không. Hai dụ Lộ và Điện là tỏ về vô thường. Đủ để hiểu ngộ Chơn Không thì bất
trú chư tướng. Quán sinh diệt ắt sẽ khuyến khích tu hành, phù hợp một cách kỳ
diệu với tông phá tướng, bày tỏ một cách khéo léo phép quán vong tình, bản đời
Ngụy dịch chín dụ, bản đời Tần lược bớt. Vì sao đêm và ngọn lửa đèn là Thể, Hữu
sanh, e khó khế với tâm không, ngầm mây và chủng thì hàm và sanh tướng tưởng,
chỉ địch lấy ý, khéo ở đó vậy.
3. LƯU THÔNG PHẦN.
Phật thuyết thị kinh dĩ, Trưởng
lão Tu Bồ-đề, cập chư tỳ khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nhất thiết thế
gian thiện nhơn A Tu La văn Phật sở thuyết giai đại hoan hỉ, tín thọ phụng
hành.
Ni: tiếng hán gọi là nữ.
Ưu Bà tắc: tiếng Hán gọi là cận sự Nam
Ưu Bà Di: tiếng Hán gọi là cận sự nữ.
Thân cận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni mà thừa sự.
A Tu La: Tiếng Hán gọi là phi Thiên, đều
là hàng đại đẳng.
Kinh Văn Thù Sở Vấn nói: Có ba loại
nghĩa “Hoan hỷ phụng hành”:
Người thuyết thanh tịnh: chẳng bị nhiễm
bởi thủ trước, lợi dưỡng.
Những điền thuyết ra thanh tịnh; vì biết
như thật về pháp Thể.
Đắc quả Thanh tịnh.
Ngài Vô Trước nói: Nếu nghe nghĩa như vậy,
chẳng giác biết Đại thừa, Ngã niệm nặng hơn đá, rốt cuộc không có Nhân.
Ngài Thiên Thân nói: Hiếm thay chư Phật
tổng trì pháp, chẳng thể xưng lường cú nghĩa thâm, từ tôn giả nghe và rộng thuyết,
hồi công đức này cho quần sinh.
Đại Vân nói: Đại Thánh thuyết kinh diệu
lý đã xong, hai không viên tròn bốn chúng phụng hành.
Tăng Triệu nói: Đồng nghe cùng ngộ pháp
hỷ động lòng, tuân theo lời dạy mãi mãi chẳng quên.
Tư Thánh nói: Bát-nhã thâm kinh mẹ Phật
ba đời, nghe kinh bốn câu làm Nhân để siêu cõi Ác, nhất niệm tịnh trì ắt được
thọ ký Bồ-đề. Vì vậy mà người, trời, dị loại đều tín thọ phụng hành vậy.
Comments
Post a Comment